Trang chủ Ngữ văn Lớp 11 hình tượng người phụ nữ trong các tác phẩm văn học trung đại việt nam của tác giả nguyễn du...
Câu hỏi :

hình tượng người phụ nữ trong các tác phẩm văn học trung đại việt nam của tác giả nguyễn du

Lời giải 1 :

Đáp án:

 

Giải thích các bước giải:

 Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ mang tư dung tốt đẹp, tài sắc vẹn toàn  nhưng lại có số phận đầy bi thương, bị xã hội chà đạp, tước đoạt đi hạnh phúc, quyền được sống. Ấy vậy mà họ vẫn luôn toát lên những phẩm chất, cao quý, tốt đẹp. Văn học trung đại Việt Nam đã khắc họa bức tranh hiện thực xã hội đầy bất công oan trái mà người phụ nữ phải cam chịu và phẩm chất sáng ngời của họ, tiêu biểu là các tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu…

 Trong xã hội phong kiến, dường như tất cả mọi thứ đều bất công với người phụ nữ. Tình yêu không, hạnh phúc không, tiếng nói cũng không. Nhưng, chính những áp bức đó đã làm sáng ngời lên những đức tính, phẩm hạnh đáng quý, đáng trân quý của người phụ nữ. Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách.

Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, ta thấy Vũ Nương đúng là một mẫu mực của phụ nữ phong kiến với những phẩm chất đáng quý. Nàng “thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp”, là chuẩn mực của người phụ nữ Việt Nam. Trong đạo vợ chồng, nàng hết sức khôn khéo, hết sức chú trọng “giữ gìn khuôn phép” để hy vọng có được một mái ấm gia đình hạnh phúc.

Rồi chiến tranh loạn lạc, nàng tiễn chồng ra trận với lời tống biệt dịu dàng, thiết tha mà chân thành: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là một tấm lòng của người phụ nữ Việt Nam dung dị, không màng danh lợi, chỉ mong vun quén cho một mái ấm gia đình. Trong những năm tháng đằng đẵng chồng còn ngoài nơi chiến địa, người thiếu phụ đáng thương ấy đã ra sức tần tảo nuôi con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, ngày đêm giữ gìn tiết hạnh hầu vun đắp dưỡng nuôi cho cái nguồn hạnh phúc mà nàng đang mong đợi. Đối với mẹ chồng, nàng giữ vẹn đạo làm dâu thảo. Vũ Nương hết lòng săn sóc, lo thuốc thang khi mẹ ốm đau và cả việc lo ma chay tế lễ khi mẹ chồng mất… Còn gì quý hơn là lời của người mẹ chồng  nhận xét về tấm lòng thơm thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời. Trong đôi mắt của người mẹ chồng, nàng là người có «lòng lành». Sự đảm đang hiếu nghĩa ấy cũng biểu hiện phần nào tấm lòng son sắt của nàng đối với Trương Sinh. Có thể nói, đạo làm con, làm vợ, làm mẹ tất cả đều được Vũ Nương thực hiện trọn vẹn… Và có lẽ vẻ đẹp tâm hồn nàng đẩy lên đến cao độ qua hình ảnh chiếc bóng trên vách. Một chi tiết tưởng đơn giản ấy nhưng bao hàm biết bao ý nghĩa về lòng yêu thương, thủy chung son sắt của nàng đối với chồng. Dù chiến tranh ngăn cách nhưng trong tâm hồn nàng, hình bóng Trương Sinh vẫn khăng khít, gắn bó với nàng như hình với bóng không rời nhau.

Đến với nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, một trang tuyệt sắc giai nhân, một người con có hiếu, một tấm lòng vị tha bao dung. Khi gia đình gặp tai biến Kiều đã quyết định hy sinh mối tình riêng để cứu cha và em. Hành động đó khiến người đọc thật cảm phục:

“Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.”

Sống nơi đất khách quê người, nỗi nhớ về người yêu- biểu hiện của tình cảm chung thuỷ không hề vơi đi trong tâm hồn người con gái đáng thương này: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”. Kiều đã không giấu nỗi nhớ nhung da diết mãnh liệt của mình đối với chàng Kim. Vừa mới hôm nào cùng với Kim Trọng nặng lời ước hẹn trăm năm mà nay Kiều đã phải cắt đứt mối tình duyên ấy một cách đột ngột. Ngòi bút Tố Như thật tinh tế khi kể về tình cảm Thúy Kiều nhớ về người yêu cũng phù hợp với quy luật tâm lý và bộc lộ cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Chén rượu thề nguyền hôm nào dư vị còn đọng trên bờ môi, vầng trăng như vẫn còn kia, mà lại xa xôi cách trở. Kiều đau đớn nhớ tới người yêu, tưởng như lúc này chàng vẫn chưa hay biết việc nàng đã phải trầm luân trong gió bụi cuộc đời nên đang mong ngóng chờ đợi tin tức của nàng một cách uổng công vô ích!

Còn về phần nàng thì “Bên trời góc bể bơ vơ ”, biết đến bao giờ mới phai được tấm lòng son mà nàng đã quyết định dành cho chàng từ cái buổi “thề non hẹn biển” hôm ấy. Câu thơ “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” có thể hiểu là tấm lòng son sắt, nỗi nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi hoặc có thể hiểu tấm lòng son của Kiều đã bị dập vùi hoen ố biết bao giờ mới gột rửa được. Càng thương nhớ người yêu, Kiều càng thấm thía tình cảnh bơ vơ trống trải của mình, nàng càng nuối tiếc những kỉ niệm đẹp đẽ của mối tình đầu thơ ngây trong sáng. Kiều còn quên hết nỗi đau riêng của mình mà dành tất cả tình cảm thương nhớ cho cha mẹ, nàng thật là người có lòng vị tha. Những câu hỏi tu từ cứ sâu xoáy trong lòng người đọc về đắng cay cuộc đời.

“Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?”

Trong “Truyện Lục Vân Tiên”, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa vẻ đẹp của Kiều Nguyệt Nga nết na, ân tình, son sắt của một cô gái khuê. Cách xưng hô “quân tử”, “tiện thiếp”, cách nói năng văn vẻ, dịu dàng, mực thước: “Làm con đâu dám cãi cha”, “Chút tôi liễu yếu đào thơ – Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần”, cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc chiết thể hiện chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình:

“Trước xe quân tử tạm ngồi,

Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.”

Nguyệt Nga là một con người rất mực đằm thắm, ân tình. “Ơn ai một chút chẳng quên”, huống hồ đây lại là một cái ơn rất lớn, không chỉ là ơn cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời con gái trong trắng của nàng:

“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.”

Và cuối cùng nàng tự nguyện gắn bó cuộc đời với chàng trai khẳng khái, hào hiệp đó, và đã dám liều mình để giữ trọn ân tình thuỷ chung với chàng. Sự thuỷ chung ấy còn khắc họa đậm nét con người ân tình của Kiều Nguyệt Nga.

 “Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Lời ai oán trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam. Trong một xã hội phong kiến suy tàn lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong, lận đận. Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương (“Chuyện người con gái Nam Xương” – Nguyễn Dữ). Vũ Nương là một bi kịch của gia đình, của số phận phũ phàng của người phụ nữ trong xã hội đầy bất công oan trái. Niềm vui hạnh phúc gia đình không được bao lâu, rồi chiến tranh loạn lạc, nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bóng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ vô tình mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không hỏi cho rõ ràng mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh.Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người trong oan khuất. Bi kịch của Vũ Nương là bi kịch gia đình.

Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nàng đã phải bán mình chuộc cha. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để chấm dứt số kiếp trầm luân. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một giai nhân tài sắc vẹn toàn. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy. Bi kịch tình yêu của người con gái tài sắc đã khiến muôn đời sau phải thốt lên “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều” (Tố Hữu).

Còn Kiều Nguyệt Nga trong “Truyện Lục Vân Tiên”, một cô gái thủy chung son sắt, một tấm lòng trọng nghĩa, hiền thục thì bị cường quyền hãm hại phải đi cống giặc Ô Qua, đến đỗi nàng phải trầm mình tự vẫn.

 Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều hay Kiều Nguyệt Nga không phải là trường hợp  cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn. Với chế độ nam quyền “trọng nam khinh nữ”, người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị rẻ rúng. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt như đạo “tam tòng”, hay các quan niệm lạc hậu như “nữ nhân ngoại tộc”… Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng trong bi kịch cuộc đời.

 Điểm hội tụ nét đẹp của văn chương chính là sự đồng điệu trong tâm hồn của trái tim nhà nghệ sĩ đó chính là tinh thần nhân đạo cao đẹp, là ước mơ về hạnh phúc cuộc đời. Nguyễn Dữ đã thể hiện thế giới thủy cung tuy huyền bí, hoang đường nhưng vẫn đầy ấp nhân nghĩa thủy chung, Nguyễn Du tái hợp Kim – Kiều trong “mang duyên cầm sắt đổi duyên cầm kỳ” dẫu có đôi chút gượng gạo nhưng vẫn ánh lên tình đời bao dung, Nguyễn Đình Chiểu đã để Lục Vân Tiên đoàn tụ Kiều Nguyệt Nga cũng là điểm son nhân hậu.

 Thời gian đã lùi xa hàng bao thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòng người đọc. Bởi lẽ các tác phẩm đã lên tiếng phản ánh xã hội phong kiến bất công gây đau khổ cho người phụ nữ. Song song đó, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện lên thật đáng trân trọng và tự hào về người phụ nữ Việt với những phẩm chất tuyệt vời. Đó là vẻ đẹp truyền thống: đảm đang, vị tha, thủy chung son sắt, giàu đức hi sinh. Vẻ đẹp đó mãi mãi là hạt ngọc đáng trân quý.

 

 

Bạn có biết?

Ngữ văn là môn khoa học nghiên cứu ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại. Đây là môn học giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về ngôn ngữ, văn hóa và tư tưởng. Việc đọc và viết trong môn Ngữ văn không chỉ là kỹ năng, mà còn là nghệ thuật. Hãy để ngôn từ của bạn bay cao và khám phá thế giới văn chương!

Nguồn :

TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự lớp 11

Lớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng tương lai và học đại học có thể gây hoang mang, nhưng hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai!

Nguồn :

sưu tập

Copyright © 2024 Giai BT SGK