Trang chủ Ngữ văn Lớp 10 Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề về một số nét đặc sắc về nghệ thuật...
Câu hỏi :

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề về một số nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm Chữ Lầu

Lời giải 1 :

Mẫu 1

Nhắc đến những câu chuyện cổ tích của nước ta, không thể bỏ qua truyện Cây khế. Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện dân gian của nước ta.

Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một chút ruộng vườn, của cải, tuy không khá giả nhưng hai anh em vẫn có cuộc sống no đủ. Từ khi người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác, mọi việc đều đổ hết lên đầu vợ chồng người em. Thậm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia gia tài, chiếm hết của nải, đẩy vợ chồng em ra túp lều nát với cây khế của cha mẹ để lại. Vợ chồng người em chăm chỉ làm lụng, chăm bẵm cho cây khế ra quả, chim quý đến ăn và đã trả công vợ chồng em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn đến tai người anh, người anh tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng đến ăn và hứa trả ơn bằng vàng, nhưng vì tính tham lam vô độ của người anh nên đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Truyện Cây khế phản ánh cuộc xung đột giữa hai tuyến nhân vật trong một gia đình, một bên là vợ chồng người em trai hiền lành, chăm chỉ, chịu khó; một bên là vợ chồng người anh trai tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ đến đồng tiền. Thông qua khai thác xung đột trong gia đình này, tác giả dân gian đã phản ánh chủ đề của chuyện đó là phê phán sự tham lam, ích kỉ của con người, ca ngợi những con người chịu khó, chăm chỉ, biết sống lương thiện, biết thế nào là đủ. Câu chuyện còn là lời cảnh tỉnh cho những ai đã và đang xem nhẹ tình anh em trong gia đình, cắt đứt tình máu mủ ruột rà chỉ vì những cái lợi trước mắt. Chủ đề truyện này không mới nhưng nó vẫn có giá trị không riêng với thế giới cổ tích mà còn cả xã hội hiện thực bây giờ.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong truyện Cây khế thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện chia gia tài, vốn rất quen thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này bản chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai, góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng em trai. Nhờ chim quý vợ chồng em trai được đền đáp xứng đáng cho tấm lòng, sự lương thiện của mình. Cũng nhờ chim quý mà vợ chồng người anh trai đã bị trừng trị thích đáng cho bản tính tham lam, mờ mắt vì tiền của mình. Nhân vật chim quý đóng vai trò là nhân vật chức năng, thế lực siêu nhiên, thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật khá quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng cũng là một nét nổi bật cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam, chỉ nghĩ đến đồng tiền; nhân vật em trai là đại diện cho tuyến nhân vật bất hạnh, mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu. Hai tuyến nhân vật chính - tà khá quen thuộc trong truyện cổ tích, là đại diện cho các kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Nhân vật trong truyện cổ tích vốn chưa có những tâm lý hay nét tính cách độc đáo, riêng biệt như trong văn xuôi của các tác giả văn học. Nhưng thông qua lời thoại, ngôn ngữ, hành động chúng ta cũng thấy được phần nào những nét tính cách đặc trưng của nhân vật. Chẳng hạn qua thái độ rối rít, mừng quýnh, vái lấy vái để khi gặp chim thần của vợ chồng anh trai cũng đủ thấy vợ chồng anh ta là người tham lam, ích kỉ, tôn sùng vật chất, luôn trông chờ vào vận may; hành động nhét đầy vàng vào tay áo, ống quần, lết mãi mới ra khỏi hang đủ thấy anh trai tham lam đến mờ lý trí còn vợ chồng người em trai thấy con chim thần chỉ biết than ông chim ơi, ông ăn hết khế nhà cháu rồi hành động chỉ nhặt vừa đủ vàng bạc nhét vào túi rồi ra về cũng đủ thấy người em trai vốn bản tính lương thiện, hiền lành. Nhân vật chỉ được khắc họa qua hành động, ngôn ngữ nhưng những nét tính cách nổi bật vẫn hiện lên tương đối đậm nét.

Những phân tích ở trên đây cho thấy Cây khế là một truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống ham vật chất, coi thường tình cảm máu mủ. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, hành động để nhân vật bộc lộ rõ cá tính của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.Câu chuyện là một bài học đắt giá cảnh tỉnh những người tham lam, không coi trọng tình cảm gia đình, sớm hay muộn cũng sẽ nhận phải một kết cục không may mắn.

Mẫu 2

Truyền thuyết dân gian vốn là món ăn tinh thần vô cùng phong phú của dân tộc ta, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Thuở ấu thơ ta lớn lên nhờ những câu chuyện kể của bà, của mẹ, lúc trưởng thành ta lại ru con ngủ bằng chính những câu chuyện hấp dẫn ấy. Có rất nhiều câu chuyện đã trở nên quen thuộc trong lòng mỗi người ví như Tấm Cám, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh hay Thánh Gióng,... Tựu chung lại những truyền thuyết, những câu chuyện cổ ấy đều phản ánh chân thực khát khao của nhân dân ta về một cuộc sống tốt đẹp, lương thiện, về việc chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm với một niềm tin tích cực. Sự tích Hồ Gươm cũng chính là một truyền thuyết như vậy. Bối cảnh của truyền thuyết diễn ra trong lúc giặc Minh đô hộ nước ta, tuy đã có nghĩa quân Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống giặc, nhưng buổi đầu thế lự còn non yếu, nên vẫn thường thua trận. Long Quân thấy nghĩa quân anh dũng, xả thân vì nước nên quyết định cho mượn gươm thần. Tuy nhiên, việc cho mượn gươm Long Quân cũng thiết kế một cách rất tinh tế, như là một thử thách cho Lê Lợi, bởi cái gì dễ có được người ta thường không trân trọng. Hơn thế nữa việc cho mượn gươm có phần thử thách ấy còn giúp Lê Lợi thu nạp được thêm một vị tướng tài là Lê Thận.

Lê Thận ban đầu vốn làm nghề đánh cá, có lẽ Long Quân đã thấy được khí chất anh hùng và tiềm năng của chàng trai miền biển này nên đã cố tình gửi gắm lưỡi gươm cho Lê Thận. Sau ba lần thả lưới ở ba khúc sông khác nhau mà vẫn vớt được cùng một lưỡi gươm kỳ lạ, đen thui, giống một thanh sắt không hơn không kém, Lê Thận đã quyết định đem về dựng ở xó nhà, vì linh cảm của một người thông minh thì gươm này ắt có điều bí ẩn, sau này có thể dùng được. Theo dòng chảy định mệnh, Lê Thận tham gia nghĩa quân Lam Sơn, trở thành phụ tá đắc lực, lập nhiều công lớn, chiến đấu anh dũng, thế nên có lần Lê Lợi đã ghé nhà Lê Thận chơi. Dương như đã nhận ra chủ tướng Lê Lợi, nên lưỡi gươm đen sì, vốn vẫn gác xó nhà lại sáng rực lên bất thường. Lê Lợi cầm lên xem thì thấy hai chữ "Thuận Thiên", như báo trước cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo là hợp ý trời, được trời cao ủng hộ. Tuy nhiên đến đây những con người trần mắt thịt vẫn chưa thể nào liên hệ đến sự thần kỳ của lưỡi gươm kỳ lạ ấy.

Chỉ đến một lần, nghĩa quân thất thế, Lê Lợi phải chạy một mình vào rừng tránh sự truy lùng của giặc, lúc này đây vô tình phát hiện ra ánh sáng kỳ lạ ở một ngọn cây trong rừng, Lê Lợi tò mò trèo lên xem thì phát hiện một chuôi gươm nạm ngọc cực đẹp. Là người nhanh nhạy Lê Lợi lập tức liên tưởng đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ông liền đem chuôi gươm ấy về. Qủa đúng như vậy, khi lắp lưỡi gươm vào chuôi gươm thì vừa in, sau nhiều lần thử thách cuối cùng chuôi và lưỡi gươm cũng tìm được nhau, ý trời đã phó thác cho Lê Lợi làm việc lớn. Ngoài ra sự tương hợp của chuôi và lưỡi gươm còn thể hiện một lời nhắc nhở rất hay của Long Quân, rằng muốn làm việc lớn trước hết cần sự đoàn kết, nếu chỉ có chuôi gươm đẹp đẽ thì cũng chẳng thể chém đầu tên địch nào, còn nếu chỉ có lưỡi gươm thì cũng chẳng thể dùng bởi thiếu mất chuôi. Hình ảnh chuôi gươm cũng đại diện cho vị chủ tướng là Lê Lợi người lãnh đạo nghĩa quân, lúc nào cũng phải sáng suốt và mạnh mẽ. Hình ảnh lưỡi gươm là đại diện cho quân đội của ta, tiêu biểu là những vị tướng dưới trướng như Lê Thận, người sẽ giúp Lê Lợi chém đầu từng tên giặc cướp nước. Như vậy sự vừa vặn của chuôi và lưỡi gươm chính là biểu hiện của sự phối hợp ăn ý giữa chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân dưới trướng, đó là sức mạnh tổng hòa làm nên chiến thắng của nhân dân ta.

Từ khi có sự trợ giúp của thanh gươm thần, nghĩa quân ta liên tục thắng trận, quân giặc bị đánh đuổi không còn một mảnh giáp, phải đầu hàng và rút quân về nước trong sự nhục nhã. Có được chiến thắng ấy, một phần là nhờ sự thần kỳ của gươm thần mà Long Quân cho mượn, đồng thời gươm ấy đã mang lại niềm tin và nhuệ khí cho nghĩa quân ta, giúp sức mạnh nghĩa quân tăng gấp bội.

Chuyện sau khi Lê lợi đã lên làm vua, trong một lần du thuyền trên hồ Tả Vọng (hồ Gươm bây giờ), thì có rùa Thần lên đòi gươm về cho Long Quân có nhiều ý nghĩa. Đầu tiên là lý lẽ có mượn có trả, Lê Lợi đã chiến thắng quân Minh, đất nước ta đã yên bình, thanh gươm cũng không còn phận sự gì nữa thì nên được trả về cho chủ cũ. Thứ hai là Long Quân muốn gửi gắm một điều rằng, sự trợ giúp của thần linh âu cũng chỉ là một phần nhỏ, còn nếu muốn vận nước hưng thịnh lâu dài thì phải dựa vào tài trị quốc của Lê Lợi, đừng nên ỷ vào việc có gươm thần mà lơ là cảnh giác, bài học của An Dương Vương vẫn còn sáng mãi cho đến tận bây giờ. Dù bất kỳ lý do nào, Long Quân đòi lại gươm cũng thật xác đáng. Câu chuyện trả Gươm cũng giải thích lý do hồ Tả Vọng còn có tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.

Sự tích Hồ Gươm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn rất phong phú về nghệ thuật Trong truyền thuyết này có hai câu chuyện vừa lồng ghép vừa tách bạch với nhau: câu chuyện mượn gươm và câu chuyện trở gươm. Chúng có nội dung riêng nhưng đồng thời bổ sung nghĩa cho nhau. Không chỉ vậy văn bản là sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố tưởng tượng, kì ảo một cách hài hòa, hợp lí. Với sự kết hợp hài hòa các yếu tố kì ảo và sự bền bỉ với các yếu tố lịch sử, Sự tích Hồ Gươm không chỉ giải thích, nguồn gốc ra đời của tên gọi Hồ Gươm. Mà qua câu chuyện này còn nhám ca ngơi, tôn vinh tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân của khởi nghĩa Lam Sơn Tên họ Hoàn Kiếm đồng thời cũng dùng để đánh dấu chiến thắng của dân tộc, thể hiện ước mơ, khát vọng hòa bình của nhân dân.

Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện lòng tin và khát vọng mạnh mẽ của nhân dân ta về sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bởi cuộc chiến của nhân dân ta là cuộc chiến vì chính nghĩa, có sự trợ giúp của thần linh, là thuận theo ý trời, những kẻ hung tàn bạo ngược ắt phải thất bại. Sự tích ấy còn là lời lý giải lý thú về những cái tên khác của hồ Gươm.

Mẫu 3

Nghệ thuật đặc sắc nhất trong truyện ngắn Chữ người tủ từ là tình huống truyện. Tình huống truyện giúp cho cốt truyện phát triển từ cuộc gặp gỡ đến sự biệt đại của quản ngục cho Huấn Cao rồi đến sự hiểu nhầm của Huấn Cao trước tấm lòng của quản ngục để rồi sự trân trọng và quý mến khi nhận ra tấm lòng chân thành và sự biệt đãi của quản ngục, một người biết quý trọng người tài, yêu cái đẹp. Đòng thời tính cách nhân vật cũng được bộc lộ: Huấn Cao là người tài hoa uyên bác, anh hùng có khí phách có thiên lương; quản ngục đúng quản ngục của Nguyễn Tuân dù sống trong chốn cạn bã, quay quắt nhưng tấm lòng yêu cái đẹp biết trọng người tài của ông giống như một thanh âm trong trẻo trong bản nhạc xô bồ, hỗn loạn. Hoàn cảnh không thể nào thay đổi bản chất lương thiện và tốt đẹp trong tâm hồn con người. Cũng qua tình huống ấy, tư tưởng nhà văn được bộc lộ: Nguyễn Tuân một cây bút suốt đời đi tìm cái đẹp bị ẩn dấu và khuất lấp, thậm chí là cái đẹp độc đáo, mãnh liệt và ấn tượng ông đã qua tình huống này ca ngợi cái đẹp, cái đẹp của tâm hồn và nhân cách con người, cái đẹp của tài năng. Đồng thời việc ca ngợi và tìm ra cái đẹp kín đáo bị ẩn lấp ấy cũng chính là một biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước khi ca ngợi những con người dân tộc. Bằng tài năng và tấm lòng yêu con người, yêu cái đẹp. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra được tình huống truyện đặc sắc và hấp dẫn, chỉ có thể là một cây bút tài năng mới thành công như vậy. Chữ người tử tù luôn là một truyện ngắn hấp dẫn bởi giọng riêng của Nguyễn Tuân.

Mẫu 4

Nguyễn Tuân được xem là một trong những nhà văn vĩ đại trong nền văn chương Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông thường có sự sâu sắc về tư tưởng và miêu tả những nhân vật có phẩm chất phi thường, bao gồm cả người lao động đơn giản. Ông cũng đặc biệt yêu thích cái đẹp và những giá trị truyền thống. Trong sự nghiệp văn chương của mình, ông đã trải qua hai giai đoạn, trước và sau cách mạng tháng Tám. Ở giai đoạn trước, ông được coi là một nhà văn duy mỹ, sùng mê vẻ đẹp và coi nó là đỉnh cao của nhân cách con người. Làm nên giá trị cho tác phẩm, kết tinh giá trị tư tưởng của văn bản trong Chữ người tử tù không gì khác chính là cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Đây là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nó là kết tinh nghệ thuật, hoàn thiện vẻ đẹp phẩm chất nhân vật và là kết tinh những giá trị tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Tuân.

Tác phẩm Chữ người tử tù của tác giả đã được xuất bản năm 1940 trong tuyển tập Vang bóng một thời. Sau đó, tác phẩm xuất hiện trên tạp chí Tao đàn với tựa đề Những chữ cuối cùng và được in thành sách với tựa đề Chữ người tử tù. Tác phẩm này đã truyền tải đầy đủ tư tưởng và giá trị nhân văn của tác giả. Tiêu đề của tác phẩm đã chứa đựng nhiều mâu thuẫn, tạo thành tình huống truyện kịch tính và khơi gợi được trí tưởng tượng của người đọc. Chủ đề tư tưởng của tác phẩm là ca ngợi cái đức và cái tài, khẳng định tính vĩnh cửu của vẻ đẹp trong xã hội. Tác phẩm có tình huống gặp gỡ rất mới, lạ lẫm, diễn ra trong môi trường xã hội hiện đại ở những giờ phút cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người với ý chí kiên cường và tài năng lớn song không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật đã đảo ngược hoàn toàn với nhau. Mối quan hệ giữa Huấn Cao và quản ngục là mật thiết và gắn bó với nhau. Tình huống truyện đã giúp phát triển logic và hợp lý, đẩy lên đến cao trào, bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật thông điệp của tác phẩm: Sự bất tử của cái đẹp và sức mạnh chiến thắng của cái đẹp, cảm hóa trước nét thanh thuần thoát tục của cái đẹp.

Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao được Nguyễn Tuân khắc họa ở các bình diện để thấy hết những vẻ đẹp thanh cao đạt đến chân, thiện, mỹ của một người tài hoa bậc nhất. Nguyễn Tuân đã khắc họa vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao ở nhiều khía cạnh, để thể hiện sự thanh cao, thiện lương và tài hoa của một người vĩ đại nhất. Tác giả mô tả Huấn Cao là một nghệ sĩ tài ba, được nhiều người biết đến, nhưng ông không dùng bút để kiếm tiền hoặc quyền lực. Ông chỉ viết cho những người xứng đáng và biết trân trọng cái đẹp. Nguyên nhân ông cho phép viên quản ngục giữ chữ của mình là vì tình người, và ông xuất hiện trong truyện như một người anh hùng có tất cả các phẩm chất của một người văn võ song toàn. Tác giả muốn giới thiệu Huấn Cao một cách tự nhiên và chân thật, để giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh và tư tưởng của nhân vật. Với những đối tượng như viên quản ngục và thầy thơ, Huấn Cao đã truyền đi tên tuổi và tài năng của mình, và việc viên quản ngục có được đôi câu đối của Huấn Cao đã khiến ông cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện.

Nguyễn Tuân đã tạo ra một loạt nhân vật là viên quản ngục, người yêu thích cái đẹp và tinh thần nghệ thuật phong phú nhưng lại rơi vào nơi ô uế, tục lưu. Nhà văn đã xây dựng hai nhân vật chính diện song song để so sánh và làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn cao cả của họ. Viên quản ngục đã chọn sai nghề, ông là một âm thanh trong sáng lẫn vào giữa một bản nhạc mà luật nhạc thì hỗn loạn ồn ào. Như cách mà tác giả nói Thượng đế đôi khi trêu ngươi, đem cả những điều thiêng liêng vào giữa một đống rác rưởi. Thật đáng quý sống trong một xã hội hỗn độn, loạn lạc mà vẫn giữ được tâm hồn mình không bị vùi dập trong bùn lầy, ông ấy đã biết trân trọng điều thiện, biết kính trọng người khác, là sự can đảm không sợ nguy hiểm. Người cho chữ ở đây là Huấn Cao, nhưng khác với hình ảnh của các tao nhân mặc khách khi cho chữ, Huấn Cao không được thoải mái, tự do về thân thể hay uống rượu thưởng trà mà cổ đeo nẹp chân bị xích vẽ, trong tư thế khó khăn đó, hình ảnh Huấn Cao cho chữ hiện lên càng sáng và có sức hút hơn bất kỳ nơi nào khác. Làm sao mà trong chốn lao tù lại có thể tồn tại một vẻ đẹp nhân văn như thế? Huấn Cao tựa như bông sen tỏa ngát hương giữa chốn sinh lầy tăm tối, tại nơi không ai có thể ngờ đến đó đã tạo nên những dòng chữ vuông vức đẹp đẽ trên giấy trắng. Người có nhu cầu xin chữ là viên quản ngục người có hứng thú với cái tài do Huấn Cao nghĩ ra. Điều đặc biệt ở đây là địa vị của người cho chữ và kẻ xin chữ cũng hoàn toàn trái ngược, nếu như Huấn Cao là tên tử tù nguy hiểm bị biệt giam thì viên quản ngục chính là người cai quản nhà ngục có nhiệm vụ bắt giữ những kẻ tử tù khá.

Cảnh cho chữ diễn ra ở một nơi và thời điểm rất đặc biệt, nơi Huấn Cao tạo ra những dòng chữ to lắm, đẹp lắm không phải nơi phòng ốc gọn gàng, cũng không phải nơi cảnh quan đẹp như thường thấy mà lại là không gian tối tăm, ngột ngạt của nhà giam một căn phòng tối, chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ kiến, đất bẩn thỉu phân chuột, phân gián. Thời điểm viết chữ cũng rất đặc biệt, đó không phải ban ngày hay bất kỳ lúc nào khác trong ngày mà lại là giữa đêm khuya sâu, khi bóng đêm đã che phủ hết cảnh vật, khung cảnh nhà giam buồn bã tối tăm được chiếu sáng bởi ánh nến yếu ớt và khi mọi người đã ngủ say- đấy là thời điểm mà viên quản ngục xin chữ của Huấn Cao. Huấn Cao chọn thời điểm đặc biệt này có lẽ là để bảo vệ vị quản ngục khỏi những tai tiếng không xứng đáng. Hay là do chỉ trong khung cảnh và thời điểm đó là phù hợp nhất và tránh khỏi sự quấy rầy và mất tập trung bởi những hoạt động xung quanh? Cảnh nhà giam là nơi của những cám dỗ, sự lừa dối và các trò chơi xấu xa, là nơi của những tiếng la hét chửi rủa và đe dọa. Có thể nói khung cảnh chốn nhà giam đầy khắc nghiệt đó lấy đâu ra chỗ cho sự thăng hoa và giao thoa của trí tuệ. Huấn Cao không muốn một con người tốt bụng như viên quản ngục bị rơi vào vòng xoáy của những thị phi u ám đó.

Các nhân vật trong cảnh cho chữ cũng không bình luận về những dòng chữ đặc biệt cao quý trên tấm lụa bạch như cách thưởng thức một bức tranh chữ hay một tác phẩm nghệ thuật. Căn cứ vào tâm thế xúc động kính cẩn của viên quản ngục, căn cứ vào những lời khuyên bảo của Huấn Cao với họ, có thể nhận ra nội dung bao trùm trong bức châm có lẽ không tách rời hai chữ "thiện lương", bức châm đã được chiêm ngưỡng như một biểu tượng của "cái đẹp, cái thiện, của lẽ sống làm người". Cảnh cho chữ, xin chữ đã trở thành nơi hội tụ của tài hoa, của nhân tâm cùng sự tri âm tri kỷ trong hoàn cảnh ngục tù. Quản ngục vốn chỉ có khát khao xin chữ, vậy mà ông ta đã được nhiều hơn cả sự mong đợi, Huấn Cao không chỉ cho chữ mà còn cho bài học làm người quý giá: trước khi đến với cái đẹp của nghệ thuật phải giữ trọn cái đẹp của thiên lương, cái đẹp không thể tách rời cái thiện. Việc Huấn Cao cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của quan ngục mà đồng ý cho chữ là biểu hiện gắn kết giữa tài và tâm, còn lời khuyên của viên quản ngục cho thấy quan điểm của Nguyễn Tuân về sự thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện, không thể chiêm ngưỡng cái đẹp ở nơi ngự trị của cái ác, không thể hướng tới cái đẹp cao cả ở chốn mà thiên lương khó giữ cho lành vững.

Truyện ngắn "Chữ người tử tù" đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của tác giả từ việc xây dựng nhân vật tài hoa nghệ sĩ đến việc phát huy cao nhất bút pháp tương phản trong miêu tả, lối viết linh hoạt, uyển chuyển từ nghệ thuật xây dựng tình huống đến tạo không khí cổ xưa cho tác phẩm, từ việc sử dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình, có nhịp điệu đến việc tô đậm những tính cách phi thường, xuất chúng tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Ca ngợi Huấn Cao, con người hội tụ cả tài hoa, khí phách và thiên lương, truyện ngắn vừa thể hiện quan niệm thẩm mỹ tiến bộ của Nguyễn Tuân vừa ngầm lên án một xã hội tàn bạo không dung nạp, chấp nhận cái đẹp, người tài. Đó cũng là cách nhà văn kín đáo bày tỏ sự bất bình với trật tự xã hội đương thời của tác phẩm.

Trên đây là bài viết Luật Minh Khuê về chủ đề nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của một tác phẩm truyện. Bài viết này chúng tôi đưa ra các ý phân tích tác phẩm truyện Chữ người tử tù quý bạn đọc có thể tham khảo. Hy vọng bài viết giúp ích đối với bạn đọc. Chúc các bạn học tập tốt. Xin trân trọng cảm ơn!

Bạn có biết?

Ngữ văn là môn khoa học nghiên cứu ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại. Đây là môn học giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về ngôn ngữ, văn hóa và tư tưởng. Việc đọc và viết trong môn Ngữ văn không chỉ là kỹ năng, mà còn là nghệ thuật. Hãy để ngôn từ của bạn bay cao và khám phá thế giới văn chương!

Nguồn :

TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự lớp 10

Lớp 10 - Năm đầu tiên ở cấp trung học phổ thông, chúng ta sẽ có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi khác nhau. Ngôi trường mới, xa nhà hơn, mở ra một thế giới mới với nhiều điều thú vị. Hãy mở lòng đón nhận và tận hưởng những trải nghiệm mới!

Nguồn :

sưu tập

Copyright © 2024 Giai BT SGK