Trang chủ Ngữ văn Lớp 11 Viết bài văn phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Vợ Nhặt câu hỏi 6172821
Câu hỏi :

Viết bài văn phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Vợ Nhặt

Lời giải 1 :

Kim Lân được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với đất với người, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của nông thôn Việt Nam. Người ta nhận xét rằng lần đầu tiên có một nhà văn xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai, của cuộc sống người nông dân để tái hiện trên mỗi trang viết. Văn Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lý nhân vật sắc sảo. Trong số những tác phẩm của ông thì truyện ngắn "Vợ nhặt" được in trong tập "Con chó xấu xí", xuất bản năm 1962 là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Trong tác phẩm đó, tình huống truyện của ông đã ghi lại sự thật mặn chát của cuộc đời người nông dân trong nạn đói 1945, tất cả sự thật nghiệt ngã như được tái hiện qua tình huống ấy.

Xây dựng tình huống là vấn đề then chốt của truyện ngắn, là cánh cửa mở ra để người đọc đi vào khám phá giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhà văn thường xây dựng hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật vào đó khám phá vẻ đẹp tâm hồn tính cách nhân vật đồng thời tái hiện bức tranh đời sống xã hội. Kim Lân cũng thế, ông đã tái hiện không gian năm đói 1945 làm phông nền cho việc anh cu Tràng nhặt được vợ. Cái năm Ất Dậu ngày ấy đã trở thành nỗi kinh hoàng của lịch sử, là vết thương lòng không bao giờ mờ được trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói là con số mà hàng trăm hàng nghìn năm sau mỗi lần nhắc tới con cháu ta không khỏi rùng mình ghê sợ. Dưới đất bên những gốc đa gốc gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ như những bóng ma. Người Thái Bình, Nam Định đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau đi trông xanh xám dật dờ như những bóng ma. Không khí vẩn lên mùi ẩm mốc của rác rưởi và mùi gây của xác người, tất cả tạo nên một bầu không khí ảm đạm tang tóc và thê lương. Cái đói, cái chết len lỏi vào ngõ ngách, gõ cửa từng nhà, đụng chạm đến từng người, cõi âm hòa với cõi dương, cuộc sống mấp mét bên bờ vực của cái chết. Giữa bối cảnh tối xầm lại vì đói khát ấy thì một việc hệ trọng nhất của một đời người lại diễn ra một cách nhanh chóng vội vàng - đó là việc anh cu Tràng có vợ.

Tình huống truyện của tác phẩm đã độc lạ từ những nét đầu tiên, bởi chuyện Tràng có vợ là một điều kì lạ. Người ta vẫn thấy anh cu Tràng là người hội đủ mọi nét xấu trên đời. Anh ta xấu trai, "hai con mắt nhỏ tí", "hai quai hàm bạnh ra", "cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn". "Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Có thể nói, lời văn của Kim Lân như thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật trên từng câu chữ. Không chỉ xấu mà Tràng còn rơi vào kiếp nghèo, nghèo đến tận đáy cùng của xã hội. Tràng đã rất chăm chỉ đi làm lụng, đụng việc gì anh ta cũng làm, nhưng căn nhà mà hai mẹ con Tràng ở chẳng khác gì "túp lều xiêu mưa ngã gió mọc trên những búi cỏ dại", thêm vào đó tài sản của Tràng còn là một đống quần áo rách trong một góc nhà, là hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi, là đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi. Có thể nói cái nghèo đã kéo ghì cuộc sống của mẹ con Tràng xuống sát đất để rồi cái chết đang rình rập bủa vây. Một người xấu như Tràng, bất hạnh đến cùng cực như thế mà có vợ, thậm chí nhặt được vợ một cách qua dễ dàng chẳng phải là một chuyện lạ hay sao. Kim Lân đã chọn những chi tiết rất thật, rất đời thường, lựa chọn những ngôn ngữ mộc mạc giản dị và gần gũi để tái hiện bức tranh hiện thực đời sống xám ngắt trong năm Ất Dậu 1945.

Đồng thời, cái cách mà Tràng nhặt được vợ cũng khiến cho tình huống truyện trở nên độc đáo vô cùng. Tràng có vợ chỉ với một câu nói bông đùa trong lần gò lưng kéo xe bò thóc, hắn nhìn thấy những cô gái ngồi vêu mặt ra ở dốc tỉnh, Tràng đoán họ ngồi đó để nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có việc gọi thì làm. Họ chính là kiếp người trôi dạt bị cơn bão táp của đói khát đẩy xô. Trước cảnh đó Tràng cất câu hò cho đỡ nhọc chứ không có ý chòng gẹo cô nào:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì

Dẫu biết rằng có khối đấy mà cơm trắng mấy giò thế mà Thị vẫn ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Cho đến lần thứ hai gặp Thị thì Thị và Tràng mới nên duyên vợ chồng. Hôm đó, khi trả hàng xong Tràng ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì Thị ở đâu sầm sập chạy đến đứng sưng sỉa trước mặt Tràng: "Điêu! Người thế mà điêu". Thoáng đầu Tràng chẳng hiểu gì nhưng trong phút chốc Tràng nhận ra Thị, nhan sắc của Thị dường như cho Tràng biết rằng Thị đang mấp mé bên bờ vực của cái chết đói, chỉ biết dõi theo câu hò xăm xăm đi tới tìm Tràng mà thôi.

Nhìn Thị, Tràng chưa hề yêu ngay, Tràng chỉ thấy thương cho cô gái trước mặt nên sẵn sàng đãi Thị "thích ăn gì thì ăn", nghe thế hai con mắt trũng hoáy của Thị tức thời sáng lên, như là Thị đã tìm thấy một nguồn sống. Thế là Thị cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng nói năng gì. Nhìn Thị lúc này có vẻ như rất trơ trẽn, Thị đã chối bỏ liêm xỉ, đánh rơi lòng tự trọng cắm đầu mà ăn. Kẻ hời hợt thì nhìn Thị bằng cặp mắt khinh bỉ, người sâu sắc thì ngậm ngùi cám cảnh rưng rưng nước mắt mà cảm thông xót xa cho Thị. Cái gì đã làm cho Thị đánh rơi mất lòng tự trọng? Cái gì đã làm cho Thị trở nên trơ trẽn? Phải chăng đó là cái đói, cái chết? Vì sống cho nên Thị phải ăn bởi sống mới là nhân văn, nhân bản. Đã có bao triết lý được đem ra để bênh vực những người như Thị, ví như ngạn ngữ Hi Lạp cho rằng: "Có ai chết hai lần để học bài học kinh nghiệm về cái chết bao giờ đâu". Xong bữa tiệc bánh đúc Thị cầm cây đũa quệt ngang miệng và nói "hà, ngon", "về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố". Tràng đáp lời: "Làm đếch gì có vợ". "Này nói đùa chứ có về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về. Cả cuộc trò chuyện,Tràng không có ý chòng ghèo, chỉ coi là mấy câu đùa vui, ai ngờ Thị theo về thật. Thế là một anh cu Tràng đã có vợ, Thị thì cũng có chỗ để nương tựa.

Điểm độc đáo của tình huống truyện còn thể hiện rất rõ ở tâm trạng của mỗi nhân vật khi Tràng có vợ. Lấy được vợ mà sao tâm trạng Tràng lạ quá. Ban đầu anh chưa vui mừng. Anh ngơ ngác, anh lo lắng tương lai mình phải đèo bòng thêm một người phụ nữ. Thế rồi sau tất cả, anh mới mới gạt đi mọi lo toan để vui mừng cho sự thành gia lập thất của chính mình và mơ ước về một gia đình bên Thị. Đồng thời, cái khung cảnh mà Tràng lấy vợ cũng quá lạ lùng. Người ta lấy vợ thì pháo đỏ rượu nồng, kèn trống linh đình, còn Tràng dẫn vợ về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.

Sự kiện Tràng lấy vợ cũng làm cho cả xóm ngụ cư cảm thấy lạ lùng. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: "Anh Tràng ơi, chông vợ hài!" Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui và sự chúc mừng dành cho Tràng. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: "Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?" Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.

Bạn có biết?

Ngữ văn là môn khoa học nghiên cứu ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại. Đây là môn học giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về ngôn ngữ, văn hóa và tư tưởng. Việc đọc và viết trong môn Ngữ văn không chỉ là kỹ năng, mà còn là nghệ thuật. Hãy để ngôn từ của bạn bay cao và khám phá thế giới văn chương!

Nguồn :

TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự lớp 11

Lớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng tương lai và học đại học có thể gây hoang mang, nhưng hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai!

Nguồn :

sưu tập

Copyright © 2024 Giai BT SGK