1.“Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thường xuyên và phổ biến nhất của sự hành chức ngôn ngữ.” Trong đời sống giao tiếp hàng ngày, hội thoại là kỹ năng cần thiết nhất, được sử dụng nhiều nhất. Vì vậy, dạy kỹ năng hội thoại cho HS tiểu học nói chung và HS lớp 2 nói riêng là việc làm có ý nghĩa quan trọng, giúp HS nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ trong học tập và giao tiếp.
Phát triển kỹ năng hội thoại cho HS tiểu học chính là việc dạy cho các em biết sử dụng linh hoạt các nghi thức lời nói vào các cuộc hội thoại cụ thể một cách phù hợp; giúp HS luyện tập cách đối thoại có văn hoá. Phát triển kỹ năng hội thoại cho HS tiểu học là phát triển đồng thời hai kỹ năng nói, nghe, luyện tập cả kỹ năng trao lời và đáp lời trong các cuộc thoại gắn với đời sống học tập, sinh hoạt hàng ngày.
2. Những ưu điểm về nội dung và cách thức rèn luyện kỹ năng hội thoại cho HS của phân môn Tập làm văn lớp 2
2.1.Việc rèn luyện kỹ năng hội thoại cho HS tiểu học thực chất đã được quan tâm từ lớp 1, thông qua phần luyện nói theo chủ đề của các bài Học vần(ở học kỳ 1) và Tập đọc (ở học kỳ 2). Tuy nhiên, lên đến lớp 2, thông qua giờ Tập làm văn, hội thoại mới trở thành một kỹ năng trọng tâm của chương trình Tiếng Việt.
Phân môn Tập làm văn lớp 2, rèn luyện kỹ năng hội thoại cho HS bằng hệ thống bài tập luyện nói có nội dung cốt lõi là các nghi thức lời nói tiếng Việt. Có thể hệ thống hoá nội dung dạy học hội thoại ở Tập làm văn lớp 2 như sau:
Tự giới thiệu, Chào hỏi, tự giới thiệu, Cảm ơn, xin lỗi, Khẳng định, phủ định, Mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị, Chia buồn, an ủi, Gọi điện, Chia vui, Khen ngợi, Ngạc nhiên, thích thú (học kỳ 1).
Đáp lời chào, lời tự giới thiệu, Đáp lời cảm ơn, Đáp lời xin lỗi, Đáp lời khẳng định, Đáp lời phủ định, Đáp lời đồng ý, Đáp lời chia vui, Đáp lời khen ngợi, Đáp lời từ chối,Đáp lời chia buồn, an ủi (học kỳ 2).
Các nghi thức lời nói được dạy trong chương trình Tập làm văn lớp 2 chủ yếu thuộc nhóm biểu lộ và nhóm cầu khiến. Đây là hai nhóm nghi thức ngôn ngữ cần phát triển từ tuổi nhỏ, phù hợp với khả năng phát triển ngôn ngữ của HS lứa tuổi 7-8 tuổi.
2.2. Nội dung dạy học hội thoại nêu trên được tích hợp trong các bài tập tình huống giao tiếp chân thực, sinh động, gần gũi với đời sống giao tiếp hằng ngày của HS, với mục đích là HS rèn luyện kỹ năng hội thoại tự nhiên, hiệu quả. Các bài tập tình huống giao tiếp thường được giả định một số nhân tố giao tiếp: hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp… Tính phong phú, đa dạng của bài tập là do sự phong phú về tình huống, nội dung và vai giao tiếp tạo nên. Những tình huống giao tiếp và nội dung giao tiếp được giả định trong bài tập rất sinh động, gần gũi với thực tế giao tiếp hàng ngày của HS lớp 2.
Chẳng hạn, Em sẽ nói gì trong những trường hợp nêu dưới đây?
a. Bạn hướng dẫn em gấp cái thuyền giấy.
b. Em làm rơi cái bút của bạn.
c. Em mượn sách của bạn và không trả đúng hẹn.
d. Khách đến chơi nhà, biết em học tốt, chúc mừng em.
(Tiếng Việt 2, tập 1, tr.36)
Bài tập tình huống giao tiếp đã kích thích được hứng thú, nhu cầu giao tiếp, tích cực hoá được hoạt động giao tiếp của HS. HS lớp 2 tham gia vào các tình huống hội thoại một cách chủ động, tự nhiên, mạnh dạn, hào hứng. Những nhân tố giả định của bài tập đã giúp HS trở thành các nhân vật giao tiếp thực sự.
Ứng với mỗi nghi thức lời nói HS luyện tập hội thoại với các vai giao tiếp khác nhau: vai ngang, vai trên, vai dưới. HS được rèn luyện việc sử dụng từ xưng hô, cách diễn đạt, các tình thái từ phù hợp với từng vai. Điều này đã thể hiện tính cụ thể, thực tế, sinh động của chương trình.
Chẳng hạn, Nói lời cảm ơn của em trong những trường hợp sau:
a. Bạn cùng lớp cho em đi chung áo mưa (vai ngang).
b. Cô giáo cho em mượn cuốn sách (vai dưới – vai trên).
c. Em bé nhặt hộ em chiếc bút rơi (vai trên – vai dưới).
(Tiếng Việt 2, tập 1, tr.38)
2.3. Mặt khác, thông qua việc dạy kỹ năng hội thoại, chương trình còn chú ý rèn luyện cho HS khả năng ứng xử tế nhị, khéo léo, phù hợp với văn hoá giao tiếp Việt Nam bằng việc tạo ra nhưng tình huống giao tiếp "có vấn đề". Chẳng hạn như tình huống sau:
Có một người lạ đến nhà em, gõ cửa và tự giới thiệu: " Chú là bạn của bố mẹ cháu, chú đến thăm bố mẹ cháu". Em sẽ nói thế nào:
a) Nếu bố mẹ em có nhà.
b) Nếu bố mẹ em đi vắng.
(Tiếng Việt 2, tập 2, tr.12)
Với những bài tập cụ thể này, GV có thể giáo dục cho HS những cách ứng xử rất thực tế, vừa đảm bảo văn hoá giao tiếp, vừa phù hợp với thực tế xã hội hiện nay. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử chính là một trong những “kỹ năng sống” vô cùng quan trọng của HS.
2.4. Thông qua việc dạy kỹ năng nói, kỹ năng nghe cũng được hình thành và phát triển. Yêu cầu rèn luyện kỹ năng nghe được đặt tường minh hoặc ngầm ẩn trong hầu hết các bài tập hội thoại ở lớp 2. Bởi nghe tốt mới hiểu được ý đồ của người nói để đưa ra lời đáp phù hợp với lời trao.
Chẳng hạn, bài tập Nói lời đáp của em trong mỗi trường hợp sau:
a) Em xin anh cho em đi xem lớp anh đá bóng. Anh nói: " Em ở nhà làm cho hết bài tập đi"
b) Em sang nhà bạn mượn quả bóng. Bạn bảo:"Mình cũng đang chuẩn bị đi đá bóng".
c) Em muốn trèo cây hái ổi. Chú em bảo: “Cháu không được trèo. Ngã đấy"
[Tiếng Việt 2, tập 2, tr 143]
Ở những bài tập như thế này, khi nhập vai, HS phải lắng nghe lời trao của bạn để đáp lại phù hợp. Nếu lời trao là lời an ủi thì phải tìm cách đáp lại lời an ủi (Bạn có đau lắm không?/ - Cảm ơn bạn.Mình không sao?); nếu lời trao là lời từ chối thì phải đáp lại lời từ chối (Bạn cho mình mượn quyển truyện./-Mình chưa đọc xong./- Không sao, mình mượn sau vậy).
2.5. Bài tập hội thoại ở Tập làm văn lớp 2 đã coi trọng sự phù hợp với đặc điểm tâm lý của HS. Sách giáo khoa đã đề cao vai trò của kênh hình. Các hình ảnh được lựa chọn hàm chứa nội dung bài học, vừa tạo tình huống giao tiếp vừa tạo được ấn tượng ngộ nghĩnh, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của HS. Sách giáo khoa có rất nhiều bài tập gắn liền với tranh vẽ: nói lại lời các nhân vật trong tranh, đọc lại lời các nhân vật trong tranh, nói tiếp lời các nhân vật trong tranh, nhắc lại lời các bạn trong tranh...HS cũng nhận biết cách đáp lời trong các tình huống đa dạng như đáp lời xin lỗi, đáp lời cảm ơn, đáp lời khẳng định, phủ định, đáp lời an ủi. Đây là lợi thế để GV tổ chức cho HS rèn các kỹ năng hội thoại một cách sinh động, khêu gợi hứng thú giao tiếp cho HS.
2.6. Phương pháp rèn luyện kỹ năng hội thoại được coi trọng là trò chơi đóng vai. Thông qua phương pháp này HS thật sự nhập vai và thực hiện các nghi thức lời nói một cách hồn nhiên, chân thực vì vậy, hiệu quả dạy học rất cao. Thực tế cho thấy, HS tiểu học đã ứng dụng các nghi thức được học trong nhà trường vào thực tế nói năng một cách rất tự nhiên, sinh động. Khoảng cách giữa "hội thoại nhà trường" với "hội thoại trong đời sống" đã được rút ngắn lại.
3. Một số điểm còn hạn chế về nội dung và cách thức rèn luyện kỹ năng hội thoại của phân môn Tập làm văn lớp 2
3.1.Chương trình Tập làm văn ở lớp 2 và cả lớp 3, 4, 5 dường như chỉ tập trung vào các nghi thức thuộc nhóm biểu lộ và cầu khiến. Vì vậy, HS còn lúng túng khi sử dụng các nghi thức thuộc nhóm hứa hẹn, tuyên bố, xác tín để tác động đến nhận thức của người nghe, bày tỏ sự quan tâm… nhằm đạt đến các mục đích khác nhau trong giao tiếp.
3.2.Tình huống giao tiếp xây dựng cho một số hành vi còn đơn điệu, phạm vi giao tiếp còn hẹp (chỉ giới hạn với bố mẹ, thầy cô và bạn) làm giảm tính tích cực, tự nhiên của HS khi tham gia bài tập. Nhiều bài tập dạy các nghi thức cảm ơn, xin lỗi, chào hỏi, chia vui… chưa xây dựng đủ các vai giao tiếp, gây hiểu nhầm cho HS. HS tưởng rằng chỉ cần cảm ơn, xin lỗi, chào hỏi, chia vui…với những người cùng vai hoặc vai trên còn đối với vai dưới thì không cần thiết.
3.3. Các hành vi đáp lời được đưa vào chương trình Tập làm văn lớp 2 thường dạy theo mẫu cho sẵn ở bài tập 1( đọc lại lời nhân vật, nhắc lại lời nhân vật trong tranh) rồi phân vai thể hiện theo mẫu. Sau đó, HS vận dụng mẫu để đưa ra lời đáp ở tình huống tương tự ở bài tập 2, 3. Việc dạy các hành vi đáp lời theo mẫu cho sẵn đã hạn chế rất nhiều tiềm năng ngôn ngữ mà HS đã thụ đắc được trước khi đến trường và hạn chế khả năng sáng tạo của HS.
Ví dụ: Đọc đoạn đối thoại sau. Nhắc lại lời của bạn Hà khi được bố của bạn Dũng đồng ý cho gặp bạn Dũng:
Hà: Cháu chào bác ạ. Cháu xin phép bác cho cháu gặp bạn Dũng!
Bố Dũng: Cháu vào nhà đi. Dũng đang học bài đấy.
Hà: Cháu cảm ơn bác. Cháu xin phép bác.
(Tiếng Việt 2, tập 2, tr. 66)
Với những mẫu giao tiếp cho sẵn như trên, HS thường bắt chước một cách rất máy móc. Đáp lời cảm ơn thường là: Không có gì. Đáp lời xin lỗi: Không sao. Đáp lời từ chối: Xin lỗi.Đáp lời chia vui: Cảm ơn. Như vậy, ảnh hưởng đến tính sinh động, uyển chuyển trong giao tiếp bằng hội thoại của HS.
Bởi vì, trong thực tế giao tiếp, không phải khi nào người ta cũng dùng các hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Có khi cần yêu cầu, người ta lại dùng câu hỏi, cần nhờ vả người ta lại cảm thán. Người đối thoại phải nhanh ý, nhạy cảm mới nắm bắt được những lời đáp hay những lời trao kín đáo, tế nhị như vậy.
3.4. Lời nói của người trao chỉ trở thành hội thoại khi được người nghe đáp lời. Cặp lưỡng thoại tối thiểu là cặp trao đáp. Dạy hội thoại không theo qui luật trao – đáp thì sẽ ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả hình thành và phát triển kỹ năng hội thoại cho HS. Đây cũng là một điểm hạn chế của chương trình Tập làm văn lớp 2. Học kỳ 1, HS được rèn luyện kỹ năng trao lời với các hành vi cụ thể. Và đến học kỳ 2, HS mới học cách đáp lại các hành vi đó. Việc xé lẻ các cặp thoại đã làm mất nhiều thời gian dạy học, hiệu quả không cao.
4. Một số tồn tại trong thực tế rèn luyện kỹ năng hội thoại cho HS lớp 2 ở các trường tiểu học"Quan sát" thực tế dạy học hội thoại tiếng Việt ở các trường tiểu học hiện nay, chúng tôi thấy còn một số tồn tại như sau:
4.1. Hội thoại là kỹ năng, nghi thức lời nói là nền tảng nội dung để rèn luyện kỹ năng, đó chính là mục tiêu của chương trình, SGK. Tuy nhiên, phần lớn GV chưa nắm vững mục tiêu này. Sau mỗi bài tập hội thoại, HS chỉ mới được nhận xét, uốn nắn về kỹ năng diễn đạt lời nói (trao, đáp có rõ ràng, trôi chảy không, có đủ to để mọi người nghe rõ không...). Lẽ ra ở mỗi bài tập, GV phải xác định rõ hành vi nói năng cần hình thành cho HS là gì, để thực hiện hành vi này cần đảm bảo những nghi thức nào, điều kiện nào. Sau đó là xem xét sự phù hợp giữa lời trao, lời đáp của HS với các nhân tố hoàn cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp, vai giao tiếp, nội dung giao tiếp mà bài tập đã cho. Trong thực tế, chỉ có khoảng 21% GV tiến hành thao tác này.
4.2. GV tiểu học vẫn còn rất bỡ ngỡ với việc tổ chức các hoạt động nói năng cho HS , chưa biết cách kích thích hứng thú, giúp HS tham gia giao tiếp tự nhiên, tránh gò bó, khiên cưỡng. Nhiều GV chỉ dừng lại giúp HS hoàn thành nội dung bài tập trong Vở bài tập tiếng Việt, chưa gắn được việc học các nghi thức lời nói trong chương trình với các cuộc hội thoại ngày thường để tạo cho HS thói quen giao tiếp có văn hoá.
Việc rèn luỵên kỹ năng sử dụng các yếu tố phù trợ như điệu bộ, nét mặt, cử chỉ, ánh mắt... trong giao tiếp hầu như chưa được quan tâm. Chẳng hạn, khi nói lời chia vui thì nét mặt, ánh mắt phải khác gì với khi nói lời chia buồn, an ủi; hay khi nói lời cảm ơn thì phải thể hiệnthái độ biết ơn, khi xin lỗi thì phải tỏ thái độ ăn năn, hối lỗi...Khi HS đóng vai thể hiện các nghi thức theo yêu cầu, chưa có GV nào lưu ý đến vấn đề này.
4.3.Nội dung rèn luyện kỹ năng hội thoại, như đã nói ở trên, được thiết kế thành hệ thống các bài tập tình huống.Vì vậy, GV phải phân dạng, phải nắm được mục tiêu, đặc điểm của từng dạng bài tập để có phương pháp dạy học phù hợp. Tuy nhiên, qua điều tra, 96% GV chưa chú ý đến vấn đề này. Tất cả các dạng bài tập đều được tiến hành bằng phương pháp đóng vai và hỏi đáp. Tất cả các bài tập đều được thực hiện theo một qui trình: HS nêu yêu cầu của bài tập - các nhóm thảo luận phân vai - thể hiện trước lớp - cả lớp nhận xét bổ sung - GV kết luận. Mỗi bài tập chỉ có khoảng 4- 6 HS được tham gia thể hiện, tất cả HS chỉ đóng vai trò "giám khảo" để nhận xét, đánh giá. Cách làm này đã hạn chế khả năng tham gia hội thoại của một số đông HS, ảnh hưởng đến kết quả rèn luyện kỹ năng hội thoại.
4.4. Vì còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng, tất cả GV chỉ mới cố gắng hoàn thành các tình huống mà SGK đưa ra, chưa có GV nào mạnh dạn sáng tạo các bài tập mới, các tình huống giao tiếp mới để sinh động, phong phú hoá hoạt động rèn luyện các nghi thức giao tiếp và kỹ năng hội thoại cho HS.
4.5.Thực tế cũng cho thấy, chương trình được xây dựng theo quan điểm tích hợp nhưng rất ít GV biết khai thác những nội dung có liên quan của các phân môn như Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu để dạy hội thoại cho HS. Thực ra, Tập đọc và Kể chuyện là hai phân môn có rất nhiều tình huống để cho HS thực hành thể hiện các nghi thức lời nói đã học; phân môn Luyện từ và câu có thể cung cấp nhiều kiến bổ trợ về phương tiện hình thức khi thực hiện các nghi thức cũng như các nguyên tắc đảm bảo tính lịch sự trong giao tiếp cho HS.
4.6. Dạy hội thoại chính là dạy HS biết giao tiếp phù hợp với văn hoá Việt Nam, biết giao tiếp lịch sự, tế nhị, đạt hiệu quả cao. GV tiểu học thực sự chưa quan tâm đến vấn đề này. Vì vậy, họ chỉ chú trọng việc HS đưa ra các lời trao, lời đáp có đúng với các tình huống của bài tập hay không. Khi đánh giá việc thực hiện bài tập của HS học cũng chỉ tiến hành một cách chung chung, chưa có tiêu chí cụ thể. Lẽ ra, các tiêu chí mục đích, nội dung, hoàn cảnh, vai giao tiếp phải được GV phân tích kỹ khi giúp HS tìm hiểu đề bài và lấy làm cơ sở đánh giá mức độ đúng, hay, lịch sự trong việc thể hiện lời nói của HS.
5. Một số ý kiến đề xuất về nội dung và cách thức rèn luyện kỹ năng hội thoại cho HS lớp 2 qua phân môn Tập làm văn
5.1. Về mặt nội dung dạy học hội thoại nên mở rộng phạm vi của một số nghi thức: chẳng hạn, chào (chào trong gia đình, chào bạn bè thân thiết…), giới thiệu (tự giới thiệu, giới thiệu qua người thứ ba…), hứa hẹn, xin phép, xác nhận, hỏi…; dạy cho học sinh sử dụng các hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong hội thoại. Hiện tại, kỹ năng hội thoại chỉ mới được rèn luyện chủ yếu ở lớp 2. Ở các lớp 3, 4, 5, HS chỉ học thêm một vài nghi thức khác như tổ chức cuộc họp, trao đổi, tranh luận…Vì vậy, việc bổ sung các hành vi này vào chương trình của các lớp trên là phù hợp; đảm bảo cho HS củng cố được các kỹ năng đã được rèn luyện ở lớp 2 -3 và phát triển hơn nữa kỹ năng thực hiện các nghi thức lời nói.
5.2. Phải tuân thủ qui luật trao – đáp, đảm bảo tính chất của các cặp kế cận khi dạy hội thoại cho học sinh. Phải rèn luyện kỹ năng trao lời, đáp lời cho học sinh trong các cặp trao đáp.Chẳng hạn, các cặp: chào/chào, cảm ơn/ đáp lại lời cảm ơn, xin lỗi/ đáp lại lời xin lỗi, chia vui/đáp lại lời chia vui, khen/ đáp lại lời khen, hỏi/ trả lời.
Ví dụ: Học sinh có thể đóng vai thực hiện các cặp hành vi trao đáp:
- Chúc mừng sinh nhật bạn!
- Cảm ơn bạn đã chia vui cùng mình.
Việc tuân thủ nguyên tắc hội thoại sẽ giúp cho việc rèn luyện kỹ năng được tiến hành tự nhiên, có hiệu quả.
5.3. Phải chú ý rèn luyện cho HS kỹ năng thể hiện thái độ, tình cảm và các yếu tố kèm lời khi hội thoại. Hội thoại là hình thức giao tiếp trực tiếp. Sắc mặt, cử chỉ, thái độ, ánh mắt, nụ cười và các yếu tố ngữ điệu đều tham gia trực tiếp vào việc chuyển tải nội dung thông tin của các lượt lời trao đáp. Vì vậy, cần chú ý rèn luyện cho HS cách thể hiện thái độ, tình cảm, cử chỉ và ngữ điệu nói phù hợp với mỗi hành vi lời nói. Chẳng hạn, khi nói lời chúc mừng thì phải vui vẻ, nhiệt thành; khi xin lỗi thì phải ăn năn, biết lỗi.
5.4.Phải đa dạng hoá hệ thống bài tập dạy học hội thoại. Bài tập hội thoại phải được xây dựng dựa trên các nhân tố giao tiếp; phải tạo được môi trường và nhu cầu giao tiếp cho HS; phải kết hợp rèn luyện nhiều kỹ năng trong hội thoại: kỹ năng nghe, kỹ năng nhận biết thái độ tình cảm của người đối thoại, kỹ năng đáp lời nhanh, phù hợp, khéo léo. Vì vậy, hệ thống bài tập phải bao gồm bài tập phát triển kỹ năng nghe, bài tập phát triển kỹ năng nói. Trong mỗi loại, bao gồm nhiều dạng nhỏ với mục đích rèn các kỹ năng cụ thể tinh tế, chữa các lỗi về hội thoại.
5.5. Phải phong phú hoá các phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện bài tập hội thoại. Hiện nay, một số tác giả đang bàn luận về các xu hướng dạy học hội thoại: dạy học hội thoại theo hướng phân tích hay dạy học hội thoại theo hướng thực hành. Theo chúng tôi, nên kết hợp chặt chẽ hai hướng phân tích và thực hành giao tiếp trong khi rèn kỹ năng hội thoại cho học sinh. Bên cạnh phương pháp đóng vai, được xem là xương sống của việc dạy học hội thoại hiện nay nên kết hợp các phương pháp khác như nêu vấn đề, hỏi - đáp, rèn luyện theo mẫu, giao tiếp.
Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam cùng với hơn 4 triệu Việt kiều. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam và là ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại Cộng hòa Séc. Hãy yêu quý và bảo vệ ngôn ngữ của chúng ta, đồng thời học hỏi và sử dụng nó một cách hiệu quả!
Lớp 5 - Là năm cuối cấp tiểu học, áp lực thi cử nhiều và chúng ta sắp phải xa trường lớp, thầy cô, bạn bè thân quen. Đây là năm mà chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng hãy tin rằng mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Hãy tự tin và luôn cố gắng hết mình!
Copyright © 2024 Giai BT SGK