Trang chủ Ngữ văn Lớp 12 DE BAI De bain Câu 1 chép thuộc lòng 10 câu thơ miêu tả cảnh Cấu 2 giờ và nhà...
Câu hỏi :

Mọi người ơi giải em bài này với ạ

image

DE BAI De bain Câu 1 chép thuộc lòng 10 câu thơ miêu tả cảnh Cấu 2 giờ và nhà h từ bình trong bộ tranh hình ảnh miêu tả cảnh thiên nhiên và con người trọng

Lời giải 1 :

1. “Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ ai đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

2.

Mở đầu là lời ướm hỏi của người về xuôi dành cho người ở lại – một câu hỏi thiết tha, trìu mến:

“Ta về, mình có nhớ ta”

Điệp từ “ta về” kết hợp với câu hỏi tu từ được sử dụng gợi ra một nỗi băn khoăn rằng: Rồi đây ta về, liệu mình có nhung nhớ ? Cách xưng hô “ta – mình” làm người đọc liên tưởng đến cách xưng hô quen thuộc trong ca dao, dân ca: “Ta về mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Và không chờ đợi lời hồi đáp, “ta” đã giãi bày ngay lòng mình: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên thể hiện qua hình ảnh đẹp “hoa cùng người”. Hoa và người kết hợp với nhau, lúc lại tô điểm lên cho vẻ đẹp của đối phương, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Phải chăng người đi chẳng nỡ rời xa mảnh đất Việt Bắc bởi vì hình ảnh “hoa cùng người” quá đỗi xao xuyến?

Người cán bộ kháng chiến về thị thành mà lòng chưa nguôi ngoai nỗi nhớ miền ngược: nhớ hoa, nhớ cảnh, nhớ cả con người nơi đây. Tám câu thơ tiếp theo chính là cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc bốn mùa xoay chuyển từ đông, xuân sang hạ, thu với màu sắc tươi tắn và âm thanh sống động, rộn ràng. Mỗi mùa ở Việt Bắc được tác giả Tố Hữu nhắc đến với những hình ảnh rất riêng biệt và khởi đầu cho bức tranh bốn mùa là khung cảnh mùa đông nơi núi rừng:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng”

Điểm xuyết trên nền xanh của rừng là màu đỏ của hoa chuối. Trông từ xa xa, giữa một mảnh rừng xanh ngắt, sự xuất hiện của bông hoa chuối nổi bật hơn cả, vừa rạng rỡ, sáng ngời, lại vừa lạ mắt, độc đáo. Người ta thường nhắc đến mùa đông, đặc biệt hơn là mùa đông miền cao với cái lạnh giá buốt, cái rét căm căm thấu da thấu thịt. Thế nhưng, màu đỏ của hoa chuối như màu của bó đuốc thắp lên xua tan cái buốt lạnh của những ngày mưa phùn gió bấc. Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc từ đó trở nên ấp, tiềm ẩn một sức sống mới, sẵn sàng bừng nở vào mùa xuân. Bức tranh mùa đông được vẽ ra sống động mà chỉ cần một câu thơ kết hợp giữa đường nét và màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điện lại hiện đại.

Trên nền khung cảnh mùa đông, chúng ta bắt nét đẹp khỏe khoắn của đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh hoán dụ “dao gài thắt lưng” trên đèo cao ngập tràn nắng vàng không chỉ ai khác hơn là con người của miền sơn cước. Con dao ở thắt lưng còn là vật bất ly thân của những người dân nơi đây; họ bao giờ cũng mang theo nó để phát quang, vượt chướng ngại và đề phòng thú dữ. Không miêu tả cử chỉ hay nét mặt mà Tố Hữu chọn miêu tả ánh nắng phản chiếu lại từ vật dụng quen thuộc của con người miền núi. Dẫu chỉ là một chi tiết nhỏ, nhưng người đọc vẫn thấy được vẻ đẹp sáng ngời, tự tin của đồng bào Việt Bắc. Họ, trong tư thế lao động khỏe khoắn, hiên ngang, vượt lên trên mọi khó khăn, gian khổ, làm chủ cuộc sống, làm chủ thiên nhiên.

Nếu bức tranh mùa đông rực rỡ, ấm áp với gam màu đỏ và xanh thì bức tranh mùa xuân lại nên thơ, nhẹ nhàng, trong trẻo với màu trắng của hoa mơ – một loài hoa đặc trưng cho mùa xuân Việt Bắc:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Trong tác phẩm “Theo chân Bác”, Tố Hữu cũng từng nhắc đến sắc trắng hoa mơ nở đầy một rừng nơi biên giới: “Ôi sáng xuân nay xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”. Hay trong “Gái xuân”, nhà thơ Nguyễn Bính cũng viết: “Xuân đến, hoa mơ, hoa mận nở”. Cả không gian núi rừng như bùng lên sức sống mơn mởn, bừng sáng bởi màu sắc của loài hoa này. Chính động từ “nở” đã làm cho sắc trắng như thêm sinh động hơn, như đang cựa quậy, bật tung ra khỏi nụ hoa.

Vẫn trên nền khung cảnh mùa xuân ấy, người về xuôi nhớ đến bóng dáng của những đồng bào Việt Bắc. Cảnh xuân xinh đẹp hơn bởi lẽ có thêm sự xuất hiện của con người trong tư thế lao động: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh “chuốt từng sợi giang” gợi lên vẻ đẹp khéo léo, tài hoa cùng cả sự kiên nhẫn trong lúc lao động, mà cụ thể là trong lúc làm ra những chiếc nón của người dân mảnh đất Việt Bắc.

Cảnh vật trong bức tranh lại chuyển sang một mùa mới – mùa hè. Mùa hạ hiện về trong nỗi nhớ của người về xuôi trong sắc vàng rực rỡ, trong tiếng ve kêu rộn rã:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Từ “đổ vàng” dùng tại đây thật tinh và chính xác, diễn tả được sự chuyển đổi sắc màu đột ngột từ màu trắng hoa mơ sang màu vàng của rừng thông. Ta nhớ đến ý thơ trong “Thơ duyên” của Xuân Diệu cũng từng gợi ra sự chuyển đổi sắc màu lúc thu về: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá/Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.” Những ngày cuối xuân, rừng cây hãy còn màu xanh bạt ngàn. Nhưng khi tiếng ve ngân vang, gọi hạ, từng nụ hoa e ấp trong kẽ lá lại đồng loạt trổ vàng. “Tiếng ve” đặt cạnh “phách đổ vàng” tạo ra một hiện tượng nhân quả khá thú vị: Ta ngỡ tiếng ve như bát màu sóng sánh, vàng rực đổ qua muôn lá muôn cây của núi rừng, biến chúng trở nên lấp lánh chói mắt.

Giữa “rừng phách đổ vàng” thấp thoáng hình ảnh cô thiếu nữ miền sơn cước cần mẫn, chịu thương chịu khó “hái măng một mình” để góp một phần sức lao động nuôi quân, phục vụ sản xuất, phục vụ kháng chiến. Hai chữ “một mình” gợi một vẻ đẹp thầm lặng trong lao động không chỉ của riêng cô mà còn của tất cả người dân Việt Bắc.

Một lần nữa, cảnh lại chuyển đổi khi thu về. Bộ bốn bức tranh kết thúc bằng bức tranh thu với rừng thu cao rộng và trăng thu thanh bình:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Ánh trăng thu huyền ảo, trong trẻo rọi xuống chiến khu Việt Bắc khiến ta hình dung ra một cảnh tượng hết sức yên ả, thanh bình và nên thơ. Mùa thu cũng là thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài hơn trăm năm của đất nước Việt Nam. Trong các phẩm được ra đời vào giai đoạn kháng chiến, trăng chiến khu đã làm bạn với rất nhiều nhà thơ. Ví dụ như vầng trăng trong thơ của Bác: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” (Cảnh khuya) hay “Rằm xuân lồng lộng trăng soi” (Rằm tháng Giêng) Nhưng, ánh trăng hôm nay không còn như trước, đây là ánh sáng soi rọi cuộc sống mới tự do, độc lập, thanh bình của con người. Trong những đêm trăng thu yên ả ấy lại xuất hiện “tiếng hát ân tình thủy chung” ghi lòng tạc dạ người ra đi. Tiếng hát thể hiện vẻ đẹp tâm hồn lạc quan, yêu đời, nếp sống ân tình, thủy chung của người dân miền núi.

Đoạn thơ đã miêu tả được trọn vẹn vẻ đẹp của cảnh và người nơi chiến khu Việt Bắc dẫu chỉ bằng những đường nét, màu sắc đơn giản: cảnh mùa đông rực rỡ, tiềm tàng sức sống; mùa xuân trong trẻo, nên thơ; hạ về tươi tắn và thu đến thanh bình. Cũng vì đó, nhà phê bình Hoài Thanh đã nói về những vần thơ miêu tả thiên nhiên của Tố Hữu “có thể so sánh với bất kì đoạn miêu tả thiên nhiên nào trong thơ ca cổ điển. Nhà thơ Tố Hữu tài tình ở chỗ, mỗi câu thơ tả cảnh của ông lại kèm theo tả các hoạt động của con người. Đồng thời khắc họa bức tranh thiên nhiên vừa khắc họa cả vẻ đẹp của con người. Không phải là tư thế hùng dũng, oai nghiêm, khí thế ngập trời, con người Việt Bắc trong nỗi nhớ gần gũi, bình dị, hiện lên qua những công việc giản đơn, đời thường: đi làm nương rẫy, đan nón, hái măng… Họ ẩn chứa bao vẻ đẹp, phẩm chất quý giá như cần cù, siêng năng, kiên nhẫn, chịu thương chịu khó, tài hoa tỉ mỉ trong công việc, thủy chung trong nghĩa tình. Bức tranh bốn mùa còn thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của tác giả, của người cán bộ kháng chiến với mảnh đất Việt Bắc. Mảnh đất này trở thành một phần trong con người họ, hóa thành máu thịt của họ, thành tâm hồn của họ như nhà thơ Chế Lan Viên viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.

Bức tranh tứ bình là sự kết hợp của nhiều nghệ thuật mang đậm tính dân tộc. Tố Hữu sử dụng thể thơ lục bát, lối xưng hô “mình – ta” tạo nên âm điệu trữ tình ngọt ngào, đằm thắm, mang đậm phong vị ca dao. Điệp từ “nhớ” tạo cho đoạn thơ trở thành một điệp khúc nhớ thương da diết. Hình ảnh dành riêng cho mỗi mùa không mang tính ước lệ mà ngược lại gần gũi, gắn liền với cảnh và người dân Việt Bắc. Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh cùng nhạc điệu đã góp phần làm nên cái hay cho đoạn thơ. Kết cấu đoạn thơ cân đối, hài hòa với 4 cặp câu trong đó xen kẽ một câu tả cảnh kèm một câu tả người đã tô đậm mối quan hệ gắn bó giữa hai đối tượng. Người làm đẹp cho cảnh, cảnh làm nền cho người. Thông thường trật tự các mùa thường bắt đầu từ mùa xuân, kết thúc bởi mùa đông. Thế nhưng, trật tự tả cảnh ở đây lại từ đông sang xuân rồi hạ, đến thu. Mục đích của nhà thơ là tô đậm được ấn tượng về mùa thu chiến thắng, mùa thu hòa bình lúc bấy giờ của đất nước.

Bạn có biết?

Ngữ văn là môn khoa học nghiên cứu ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại. Đây là môn học giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về ngôn ngữ, văn hóa và tư tưởng. Việc đọc và viết trong môn Ngữ văn không chỉ là kỹ năng, mà còn là nghệ thuật. Hãy để ngôn từ của bạn bay cao và khám phá thế giới văn chương!

Nguồn :

TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự lớp 12

Lớp 12 - Năm cuối ở cấp trung học phổ thông, năm học quan trọng nhất trong đời học sinh, trải qua bao năm học tập, bao nhiêu kỳ vọng của người thân xung quanh. Những nỗi lo về thi đại học và định hướng tương lai thật là nặng nề. Hãy tin vào bản thân, mình sẽ làm được và tương lai mới đang chờ đợi chúng ta!

Nguồn :

sưu tập

Copyright © 2024 Giai BT SGK