Trang chủ Ngữ văn Lớp 6 1.Hãy kể lại một truyện cổ tích mà em thích bằng lời văn của em 2. hãy kể một chuyện...
Câu hỏi :

1.Hãy kể lại một truyện cổ tích mà em thích bằng lời văn của em

2. hãy kể một chuyện truyền thuyết bằng lời văn của em 3. hãy đóng vai một nhân vật trong truyện cổ tích hoặc truyền thuyết và kể lại câu chuyện đó

Lời giải 1 :

1. bài làm

Từ thuở còn bé, chắc ai cũng đã nghe những câu hát "ầu ơ"hay ngững câu chuyện truyền thuyết đầy ý nghĩa. Bản thân em cũng không phải là ngoại lệ khi mà cũng đã nghe qua nhiều câu chuyện rất hay và ý nghĩa, một trong số đó là câu chuyện Thánh Gióng.

Chuyện rằng, ở đời hùng vương thứ 6, có đôi vợ chồng nổi tiếng là phúc đức.Nhưng họ đã ngoài năm mươi rồi mà vẫn chưa có con.Với tình mẫu tử thiêng liêng của người mẹ, bà vợ luôn muốn có một đứa con để chuyện trò cùng nhưng mãi thì ý nguyện của vẫn không thành.

Một hôm, bà vợ ra đồng,thấy có vết chân lạ liền ướm thử xem thua kém bao nhiêu.Không ngờ,bà khi về đến nhà thì thụ thai.Sau 12 tháng mang bầu, bà sinh ra một đứa bé khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Gióng.Lạ thay, sau 3 năm trời ròng rã, Gióng vẫn không cất tiềng nói một lần nào,thậm chí cậu còn không nói, cười gì cả.

Lúc ấy, giặc Minh tràn vào bờ cõi nước ta.Vò thế giặc mạnh nên nhà vua rất lo, sai sứ giả đi tìm người cứu nước.Sau khi nghe sứ giả reo tin ở ngoài đường, Gióng liền cất tiếng nói đầu đời và đòi mẹ gọi sứ giả vào.KHi sứ giả vào nhà, cậu nói sứ giả chuẩn bị cho mình một con ngựa sắt, một tấm áo giáp sắt và một chiếc roi sắt, cậu sẽ phá tan lũ giặc.Sứ giả vưa kinh ngạc vừa mừng rỡ,vội vàng về tâu vua.Vua sau khi biết tin thì cấp tốc làm những đồ vật mà cậu yêu cầu.

Lạ hơn nữa, sau khi gặp sứ giả, cậu lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no.Cả làng phải góp gạo lại để nuôi Gióng.

Giặc đã đền chân núi Trâu, thế nước rất nguy.Đúng lúc đó, sứ giả vừa mang đủ các đồ vật mà cậu yêu cầu.Cậu vươn vai trở thành một tráng sĩ cao to, mình cao hơn trượng.Tráng sĩ ặc áo giáp,cầm roi sắt và nhảy lên mình ngựa.Gióng cưỡi ngựa phi ra đón đầu giặc.Giặc bất ngờ, Gióng cầm roi sắt quất từng lớp giặc này đến lớp khác.Bỗng roi sắt gãy, Gióng nhanh trí nhổ bụi tre ven đường để đánh giặc. Giặc giẫm lên nhau mà chạy.Giặc tan, Gióng cưỡi ngựa bay về trời.

Vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Tiên Vương.

Qua câu chuyện trên, em thấy mình phải cố gắng học tập để xứng đáng với công ơn dựng nước và giữ nước của các vị anh hùng dân tộc

2.Bài làm

Chuyện xưa kể rằng, hồi ấy có chàng Lạc Long Quân ở miền đất Lạc Việt vốn có tài năng và đức độ, chàng thuộc nòi Rồng. Lạc Long Quân là con trai của thần Long Nữ, với tấm lòng thiết tha với nhân dân cùng khả năng võ nghệ cao cường, chàng thường lên đất liền để giúp dân diệt trừ lũ yêu ma tác oai tác quái và dạy dân nghề trồng trọt. Nhân dân khắp miền ai cũng yêu mến chàng Lạc Long Quân hiền từ lại giỏi giang. Lúc bấy giờ, ở chốn non cao nơi vùng đất phương Bắc có người con gái xinh đẹp tên Âu Cơ. Nàng là con của thần Nông, một vị thần gắn bó với việc trồng trọt lúa ngô, khoai sắn của nhân dân. Người người khắp chốn ai cũng ngợi ca về vùng đất Lạc Việt nhiều hoa thơm cỏ lạ, với niềm yêu thích cái đẹp cùng sự tò mò về vùng đất này nên nàng xin phép vua cha đến thăm nơi này. Tại đây, nàng gặp Lạc Long Quân, mến nhau và nên duyên vợ chồng, cùng sinh sống tại mảnh đất Long Trang.

Sau một thời gian, nàng Âu Cơ có mang và sinh ra một cái bọc lớn với trăm quả trứng, sau bảy ngày quả trứng này nở ra được một trăm người con. Là con của những vị thần nên mặt mũi khôi ngô, tuấn tú vô cùng cũng chẳng cần bú mớm sữa mẹ mà đàn con lớn nhanh như thổi, lại rất khoẻ mạnh, tài giỏi. Sau thời gian sống cùng vợ con ở đất liền, Lạc Long Quân cảm thấy nhớ quê nhà. Nỗi nhớ nhà da diết ấy khiến lòng chàng rất đỗi phân vân, cuối cùng Lạc Long Quân quyết định trở về nơi chàng sinh ra. Một mình vất vả nuôi con lại thiếu thốn tình cảm vợ chồng, nàng Âu Cơ vô cùng buồn bã bèn gọi Lạc Long Quân lên mà than rằng:
- Sao chàng nỡ đành lòng để mẹ con thiếp bơ vơ nơi chốn này mà đi? Không cùng thiếp chăm sóc và dạy dỗ các con chúng ta?

Lạc Long Quân vô cùng thương vợ và các con, chàng ân cần giải thích cho vợ hiểu nỗi lòng mình:
-Ta thân là nòi rồng ở chốn thủy cung, nơi nước non, biển cả, nàng lại là tiên miền cạn nơi núi non hùng vĩ. Hai chốn vốn tập quán, thói quen khác nhau. Vì vậy, ta và nàng khó lòng mà sống cùng nhau lâu dài được. Mong nàng hiểu cho nỗi lòng của ta.

Âu Cơ vẫn sụt sùi trong dòng nước mắt, lặng lẽ nghe lời giãi bày của chồng mình. Lạc Long Quân thương cảm nhìn vợ mà tiếp lời:
- Hãy là thế này, Âu Cơ nàng ạ! Nay ta cùng nàng chia nhau dạy con, ta cùng năm mươi con xuống biển trông nom, nàng đưa năm mươi con lên núi chăm sóc. Bận nếu có việc gì khó khăn thì cùng nhau xây đắp, giúp đỡ. Tuy khoảng cách có xa nhưng lòng nguyện thủy chung son sắt. Đừng quên lời hẹn. Ý nàng thế nào?

Dù buồn lòng song Âu Cơ vẫn nghe lời chồng, nàng đưa 50 con lên đất Phong Châu chăm sóc. Sau này trưởng thành, ai cũng giỏi giang, người con cả xây dựng đất nước lấy niên hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Trải qua bao đời và dựng xây đất nước, các con nối tiếp ngôi vị vua cha đều lấy niên hiệu là Hùng Vương. Các vua Hùng đều góp công lao rất lớn trong quá trình dựng nước của dân tộc ta.

Sau này, khi nhắc về nguồn gốc của dân tộc ai cũng tự hào về nguồn cội con Rồng Cháu Tiên. Mọi người trên khắp mọi miền đất nước cũng nêu cao tinh thần dân tộc, sự tương thân tương ái cùng đoàn kết, giúp đỡ nhau, xứng đáng với lời dặn dò của thế hệ xưa. Truyện "Con Rồng cháu Tiên" là thế đấy các bạn ạ, tuy bình dị nhưng nó để lại cho chúng ta bài học sâu sắc về cội nguồn và tinh thần dân tộc.

3. bài làm

Gia đình tôi làm nghề nông chăm chỉ nên cha mẹ tôi cũng có chút của ăn của để. Khi họ mất, tôi sống cùng với anh trai. Hai anh em tôi đều chăm chỉ làm ăn. Rồi cả hai đến tuổi lấy vợ, từ đó tình cảm giữa hai anh em không còn như xưa nữa.

Từ ngày có vợ, anh tôi đâm ra lười biếng hẳn. Trong khi đó, vợ chồng tôi phải làm lụng vất vả mới đủ ăn. Anh tôi đã không làm như lời cha mẹ dặn trước đây là phải chia đều tài sản cho hai an hem mà chiếm hết gia tài, chỉ để lại cho tôi một túp lều nhỏ và cây khế còi cọc ở góc vườn. Vì phận làm em, nên tôi chấp nhận mà không hề kêu ca, than phiền điều gì. Dù khó khăn nhưng vợ chồng tôi vẫn sống hạnh phúc và êm đềm. Hàng ngày, tôi và vợ vẫn thường xuyên thay nhau chăm sóc cây khế. Đến mùa, những chùm quả khế chín vàng óng, thơm lừng báo hiệu một mùa khế bội thu, thích hợp hái để đem ra bán. 

Sáng hôm đó, tôi ra vườn để hái khế thì nghe thấy trên ngọn cây có tiếng rung mạnh như có người. Tôi gọi vợ ra xem thì nhìn thấy trên cây khế có một con chim to với bộ lông sặc sỡ đang ăn những quả khế chín. Lúc đó, lòng tôi đau như cắt. Tôi chạy đến dưới gốc cây rồi nói: “Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?”. Chim bỗng ngừng ăn và cất tiếng trả lời: “Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi và đựng”. Nói xong rồi chim bay đi để lại cho tôi không tin vào chuyện lạ lùng đó nhưng vẫn bảo vợ may chiếc túi ba gang.

Sáng hôm sau, chim đến từ sớm và đưa tôi ra một hòn đảo nhỏ giữa biển. Tôi thực sự không thể tin vào những gì hiện ra trước mắt. Đó là cảnh tượng một hòn đảo toàn vàng bạc châu báu chất đống, hiện lên màu vàng làm tôi bị lóa mắt. Tuy nhiên nơi đó lại không hề có một bóng người khiến tôi cảm thấy lo sợ và cứ đứng yên một chỗ. Nhưng rồi chim ra hiệu cho tôi bước vào, vỗ cánh và giục giã: “Anh hãy lấy vàng bạc, châu báu vào túi, rồi tôi đưa về”. Lúc đó tôi mới dám nhặt vàng cho vào đầy túi ba gang rồi lên lưng chim để trở về đất liền. Cũng từ đó, cuộc sống của gia đình tôi trở nên khá giả hơn trước. Tôi dùng số của cái đó chia cho những người dân nghèo khổ trong làng. Cây khế bây giờ đã to lớn hơn và mùa khế nào tôi cũng chờ chim thần tới để bày tỏ lòng biết ơn.

Khi anh trai tôi biết chuyện, vào một sáng nọ, anh đến nhà tôi rất sớm. Đây là lần đầu tiên anh tới thăm tôi kể từ ngày bố mẹ mất. Nghe anh hỏi chuyện, tôi liền kể cho anh nghe. Anh liền thương lượng để đổi tài sản của mình lấy túp lều và cây khế. Thấy anh nài nỉ mãi nên tôi cũng đành bằng lòng. Cả gia đình anh chuyển về túp lều cũ của tôi. Ngày nào anh cũng ra dưới gốc khế chờ chim thần đến. Tới mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim, anh tôi đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết và đòi chim phải trả vàng. Chim cũng hứa sáng mai sẽ đưa anh tôi ra đảo vàng và dặn may túi ba gang. Đến tối hôm đó, anh tôi đã thức cả đêm để may túi mười gang để ngày mai đi lấy vàng. Sớm hôm sau anh đi cùng chim thần, nhưng đến tối muộn vẫn chưa thấy về. Cả làng đồn nhau rằng những ngư dân đã nhìn thấy chim thần chở anh ngã nhào xuống biển, cả anh và số vàng cùng chìm sâu xuống lòng nước mênh mông. Dù đã tìm kiếm nhiều ngày nhưng không thấy, nên mọi người chấp nhận rằng anh đã chết dưới đáy biển.

Tôi trở lại sống ở nhà cũ cùng túp lều và cây khế. Nhưng chim thần không bao giờ quay lại nữa, anh trai tôi cũng không thể quay về vì lòng tham vô đáy. Tôi cảm thấy rất buồn nhưng phải dặn lòng gắng sống tiếp.

Chúc bạn học tốt

#trinhtuananh07

#clair de lune

Lời giải 2 :

1           bài làm

Những câu chuyện cổ tích về các nhân vật thông minh và nhanh trí luôn khiến em thích thú hơn mọi câu chuyện cổ tích khác. Và trong số đó là câu truyện Em bé thông minh, câu truyện này đã gây ấn tượng cho em ngay lần đọc đầu tiên.

Câu chuyện xoay quanh những lần giải đố nhanh trí của cậu bé thông minh. Lúc ấy, nhà vua cử người đi khắp cả nước để tìm người tài giúp nước. Trên đường đi, viên quan đã gặp cậu bé đang cùng cha cày ruộng. Viên quan đưa ra một câu hỏi hóc búa cậu bé lập tức đố ngược lại ông ta. Điều đó khiến viên quan tin rằng cậu chính là nhân tài, vội về bẩm tấu cho đức vua.

Nghe báo, vua mừng lắm, nhưng chưa tin hẳn, nên quyết định thử tài cậu bé. Ông sai người ban cho làng cậu ba thúng xôi nếp, ba con trâu đực, yêu cầu phải nuôi làm sao có chín con trâu con nộp lên. Nhận câu đố, cậu bé không hoang mang, mà mời dân làng đem ra ăn uống no say . Sau đó lên kinh gặp vua. Đến đó, cậu khóc lóc um sùm đòi vua bảo bố sinh em trai cho mình. Hành động ấy khiến vua chú ý đến tài trí của cậu.

    Lần thử thách tiếp theo, nhà vua yêu cầu cậu làm thịt một con chim sẻ để làm cỗ. Ngay lập tức, cậu bé đưa cho viên quan một cái kim, nhờ vua rèn kim thành dao để mổ thịt chim. Lần này, thì vua thực sự phục hẳn trước tài trí hơn người của cậu bé rồi.

Đúng lúc ấy, nước láng giềng sang nước ta dò thám xem có người tài hay không, bằng một câu đố siêu hóc búa là xâu sợi chỉ qua đường ruột của vỏ ốc. Điều này cả triều đình đều bó tay. Thế mà cậu bé nghĩ ra cách giải ngay, lại còn hát lên thành bài đồng dao nữa. Lần cuối cùng này, cả triều đình và sứ giả, ai cũng nể phục trí tuệ của cậu bé.

     Em rất ngưỡng mộ trí thông minh hơn người của cậu bé trong câu chuyện cổ tích Em bé thông minh. Đồng thời qua đó, em cũng hiểu được rằng, trí thông minh không chỉ đến qua quá trình học tập mà còn đến từ những chuyến đi hoạt động trong đời sống thực tiễn.

2

Cuối tuần vừa rồi, em cùng bạn đến thư viện để đọc truyện. Ở đó, em đã đọc được nhiều câu chuyện hay và ý nghĩa. Nhưng câu chuyện làm em ấn tượng nhất chính là truyền thuyết Thánh Gióng.

Câu chuyện kể về Thánh Gióng - một anh hùng có cuộc đời chứa nhiều điều kì bí, huyền ảo. Theo truyện, Thánh Gióng sinh sống ở đời Hùng Vương thứ sáu. Gióng được mẹ sinh ra sau khi mang thai mười hai tháng. Bởi bà đã ướm thử bàn chân của mình lên một vết chân rất to. Khi sinh ra, Gióng có ngoại hình rất khôi ngô nên bố mẹ cậu mừng lắm. Thế nhưng lạ thay, mãi đến khi cậu lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, cũng chưa biết đi, cứ đặt đâu là cậu nằm im ở đấy.

Cùng lúc đó, giặc Ân ở phía Bắc lại đem quân xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh như nước lũ khiến cho nhà vua vô cùng lo lắng. vì vậy, vua sai sử giả đi khắp cả nước tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đi ngang qua nhà Gióng, thì Gióng tự nhiên cất tiếng bảo mẹ mời sứ giả vào nhà. Trước sự ngỡ ngàng của sứ giả và mẹ, Gióng bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sau đó, nhà vua đã truyền thợ làm gấp những vật này. Từ lúc gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không đủ no, áo vừa mặc vào đã căng đứt chỉ. Cả làng xóm đã cùng bố mẹ Gióng góp gạo nuôi lớn cậu, vì ai cũng mong cậu nhanh lớn để đánh giặc cứu nước.

Ngay khi tình hình đất nước rơi vào lâm nguy vì giặc Ân đã đến chân núi Trâu thì những vật Gióng yêu cầu cũng được làm xong và đưa đến chỗ cậu. Thánh Gióng đứng dậy vươn vai phút chốc biến thành một tráng sĩ. Cậu mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm gậy sắt đánh đuổi quân thù. Khiến chúng hoảng sợ bỏ chạy. Trên đường, khi roi sắt bị gãy thì gióng đã nhổ những cụm tre ngà để đánh giặc. Cậu đánh đuổi mãi đến khi đất nước sạch bóng quân giặc thì mới ngừng lại. Khi đến chân núi Sóc, Thánh Gióng để lại áo giáp trên đỉnh núi rồi cưỡi ngựa bay về trời.

Khi em cất truyện vào giá sách, lòng cứ tần ngần. Thấy vậy, cô thủ thư đã cùng em trò chuyện về Thánh Gióng. Cô bảo, câu chuyện này đã thể hiện những suy nghĩ và ước mơ của nhân dân ta từ những ngày xa xưa về hình ảnh người anh hùng chống giặc ngoại xâm. Hơn nữa, cô còn giới thiệu với em về những tương truyền thú vị phía sau truyền thuyết này. Rằng đến nay ở làng Phù Đổng, vẫn còn đến thờ Thánh Gióng. Rằng những bụi tre ngà do bị ngựa của Gióng phun lửa vào mới có màu vàng óng. Rằng vết chân ngựa sắt ngày xưa đã tạo nên nhiều ao, hồ. Sau hôm đó, em có thêm sở thích mới là tìm hiểu những truyền thuyết về lịch sử hào hùng của dân tộc.

>> Tham khảo: Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em

Kể lại câu chuyện Thánh Gióng bằng lời văn của em mẫu 2

Đêm qua, bà kể cho em nghe câu chuyện “Thánh Gióng”. Câu chuyện thật hay. Chúng em bị cuốn hút theo từng lời kể hấp dẫn của bà.

Bà kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.

Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả đi khắp nơi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.

Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong dã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp nuôi chú bé vì ai cũng mong giết giặc, cứu nước.

Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.

Vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy.

Câu chuyện Thánh Gióng để lại cho em một ấn tượng sâu sắc. Nó nói lên truyền thống oai hùng đoàn kết chống giặc cứu nước của ông cha ta và thể hiện ước mơ của nhân dân: muốn có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

3

Ở trước nhà em có trồng rất nhiều cây tre. Mỗi khi rảnh rồi, em thường ngồi đếm các đốt của cây tre. Có lần em hỏi ông: “Ông ơi, có cây tre nào có một tẳm đốt không ạ?”. Nghe vậy ông bật cười: “Muốn có cât tre trăm đốt thì phải có thần chú cơ.” Nghe vậy em liền quấn lấy ông đòi biết được câu thần chú. Vậy là ông bảo em ngồi xuống rồi kể cho em nghe câu chuyện cổ tích Cây tre trăm đốt.

Chuyện kể về một anh chàng thanh niên tuy nghèo khó nhưng rất khỏe mạnh, chịu khó làm lụng. Anh làm đầy tớ cho một ông lão, và được ông ta hứa là nếu chịu khó làm lụng cho nhà lão mà không lấy tiền thì lão sẽ gả cô con gái xinh đẹp của mình cho. Nghe vậy, anh vui lắm, nên ra sức làm lụng mà không lấy dù chỉ một đồng điền công.

Tuy nhiên, khi đến lúc cô con gái xinh đẹp trưởng thành thì ông ta đổi ý. Muốn gả cô cho tên phú hộ trong làng. Vì vậy, hắn nói với chàng trai rằng, hãy tìm cho được một cây tre trăm đốt về làm đũa cưới thì mới gả con gái cho. Thế là chàng trai hì hục thi tìm cây tre trăm đốt. thế nhưng chàng tìm mãi, tìm mãi vẫn không tìm được cây tre trăm đốt nào cả. Quá mệt mỏi và tuyệt vọng, chàng ngồi xuống bật khóc tức tưởi. Đúng lúc đó bụt hiện lên, bảo anh hãy chặt một trăm đốt tre và dạy cho anh hai câu thần chú. Câu thần chú “Khắc nhập, khắc nhập” để một trăm đốt tre tự gắn lại với nhau tạo thành cây tre trăm đốt. Câu thần chú “Khắc xuất, khắc xuất” để các đốt tre tự rời nhau ra để tiện di chuyển.

Thế là chàng trai mừng rỡ mang tre về nhà. Về đến nơi, chàng thấy trên sân là đám cỗ linh đình thì nhận ra là mình bị lừa. Thế là, chàng vội chạy lại, gọi ông lão lại xem cây tre trăm đốt. Khi lão ta vừa lại gần, chàng đọc ngay “Khắc nhập, khắc nhập” khiến lão bị dính luôn vào cây tre, trở thành đốt tre một trăm linh một. Cả nhà hỗn loạn, đầy tờ tìm mọi cách vẫn không gỡ lão ra được. mãi sau, lão đồng ý gả con gái cho chàng đúng như đã hứa. Chàng không tin ngay, mà bắt lão thề thốt nhiều lần mới thả cho lão xuống.

Từ đó, mọi người ai cũng nể phục chàng lắm. Còn chàng thì cưới được cô vợ xinh đẹp, chung sống bên nhau hạnh phúc.

Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Cây tre trăm đốt mẫu 2
Đã thành lệ, đêm nào, trước khi đi ngủ, bà nội cũng kể chuyện cổ tích cho chúng em nghe. Đêm qua, bà kể chuyện “Cây tre trăm đốt”. Câu chuyện thật hay. Chúng em bị cuốn hút theo từng lời kể hấp dẫn của bà...

Ngày xưa có một anh chàng cày hiền lành, khoẻ mạnh, đi ở cho một lão nhà giàu. Anh rất chăm chỉ lại thạo việc đồng áng nên lão nhà giàu muốn anh làm lợi thật nhiều cho lão. Một hôm, lão gọi anh đến và ngon ngọt dỗ dành:

- Con chịu khó thức khuya dậy sớm làm lụng giúp ta, chớ quản nhọc nhằn. Ba năm nữa, ta sẽ gả con gái cho.

Anh trai cày tưởng lão nói thật, cứ thể quần quật I làm giàu cho lão. Ba năm sau, nhờ công sức anh, lão chủ có thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm được ruộng, được vườn. Tuy nhiên, lão nhà giàu chẳng giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận lời gả con gái cho con trai một nhà giàu khác trong vùng. Một hôm, lão làm ra vẻ thân mật bảo anh trai cày:

- Con thật có công với gia đình ta. Con đã chịu khó ba năm, trồng cây sắp đến ngày ăn quả. Cơ ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm đốt, con gắng lên rừng tìm cho được đem về, ta sẽ gả con gái cho.

Anh trai cày mừng rỡ xách dao lên rừng. Anh không biết ở nhà hai lão nhà giàu đã sắp sẵn cỗ bàn để làm lễ cưới con trai, con gái chúng. Hai lão hí hửng bảo nhau: “Cái thằng ngốc ấy có đi quanh năm suốt tháng cũng đố mà kiếm được cây tre đủ trăm đốt! Thế nào rồi cũng bị rắn cắn, hổ vồ!”

Về phần anh trai cày, anh hì hụi trèo đèo lội suối, luồn hết bụi này bờ khác tìm kiếm mà chỉ thấy những cây tre thấp bé bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm chục đốt. Anh buồn quá, ngồi bưng mặt khóc. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên hỏi:

- Làm sao con khóc?

Anh trai cày thưa rõ đầu đuôi câu chuyện. Bụt cười và bảo:

- Khó gì việc ấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre, đem xếp nối với nhau rồi hô: “Khắc nhập, khắc nhập” thì sẽ có ngay cây tre trăm đốt.

Nói xong, Bụt biến mất. Anh trai cày làm đúng lời Bụt bảo, quả nhiên cả trăm đốt tre dính liền nối nhau thành một cây tre đủ trăm đốt. Anh sung sướng nâng lên vai vác về. Song, tre dài quá, vướng bờ vướng bụi, không sao đưa ra khỏi rừng được. Anh lại ngồi xuống khóc, Bụt lại hiện lên hỏi:

- Cây tre trăm đốt có rồi, sao con còn khóc?

Anh nói tre dài quá không vác về nhà được, Bụt liền bảo:

- Con hãy hô: “Khắc xuất, khắc xuất”, những đốt tre ấy sẽ rời ra!

Anh làm theo lời Bụt, quả nhiên cây tre rời ra trăm đốt, anh kiếm dây rừng buộc làm hai bó, mừng rỡ gánh về.

Lúc anh về tới nơi, thấy hai họ ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới biết rõ là lão nhà giàu đã lừa anh và đã lén lút đem con gái gả cho người khác. Anh giận lắm nhưng không nói năng gì, lẳng lặng gấp trăm đốt tre nối nhau và hô: “Khắc nhập, khắc nhập”. Một cây tre đúng trăm đốt tươi xanh óng ả hiện ra trước mắt mọi người. Lão chủ thấy lạ, chạy lại gần xem. Anh đọc luôn: “Khắc nhập, khắc nhập”. Lão tà dính liền ngay vào cây tre, không tài nào dứt ra được. Lão thông gia thấy vậy chạy lại định gỡ cho nhà chủ. Anh đợi cho hắn tới gần, rồi lại đọc: “Khắc nhập, khắc nhập”. Thế là lão ta cũng dính chặt luôn vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu khóc thảm thiết, van lạy anh trai cày xin anh gỡ ra cho và hứa trước hai họ sẽ gả con gái cho anh ngày hôm đó. Lúc bấy giờ, anh mới khoan thai đọc: “Khắc xuất, khắc xuất”. Tức thì cả hai lão kia rời khỏi cây tre và cây tre cũng chia thành trăm đốt. Anh trai cày làm lễ cưới cô gái và hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc suốt đời.

Khi nghe xong chuyện “Cây tre trăm đốt”, các bạn nhỏ ngồi quanh bà đều là lên: “Đáng đời cho bọn gian tham, quỷ quyệt!”. Mấy lời đó đã làm em ngẫm nghĩ: Tụi nó nhỏ mà cũng biết suy xét phải trái. Ở đời, những kẻ tham lam thường chuốc hại cho mình, còn những người hiền lành, chăm chỉ như anh trai cày sẽ được mọi người yêu quý và đạt được kết quả tốt đẹp.

Bạn có biết?

Ngữ văn là môn khoa học nghiên cứu ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại. Đây là môn học giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về ngôn ngữ, văn hóa và tư tưởng. Việc đọc và viết trong môn Ngữ văn không chỉ là kỹ năng, mà còn là nghệ thuật. Hãy để ngôn từ của bạn bay cao và khám phá thế giới văn chương!

Nguồn :

TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự lớp 6

Lớp 6 - Là năm đầu tiên của cấp trung học cơ sở, chúng ta được sống lại những kỷ niệm như ngày nào còn lần đầu đến lớp 1, được quen bạn mới, ngôi trường mới, một tương lai mới. Hãy tận dụng cơ hội này để làm quen và hòa nhập thật tốt!

Nguồn :

sưu tập

Copyright © 2024 Giai BT SGK