Trang chủ Lịch Sử Lớp 8 Câu 6. Phủ Gia Định được thành lập vào thời gian nào, gồm các tỉnh nào của nước ta ngày...
Câu hỏi :

Câu 6. Phủ Gia Định được thành lập vào thời gian nào, gồm các tỉnh nào của nước ta ngày nay? Hãy lấy đẫn chứng chứng minh việc các chúa Nguyễn đã khẳng định chủ quyền trên các đảo và các quần đảo ở Biển Đông?

Giải giúp mk với mk cần gấp

Lời giải 1 :

Đất Gia Định xưa thuộc nước Phù Nam (tồn tại khoảng đầu thế kỷ 1 đến khoảng nửa thế kỷ 7), sau đó thuộc vương quốc Chân Lạp (nay là Campuchia). Tuy nhiên, "thuộc" một cách lỏng lẻo: "các dân tộc vẫn sống tự trị, và người dân Khmer lẻ tẻ chưa hợp thành đơn vị hành chính thuộc triều đình La Bích (Chân Lạp). Trong khi đó triều đình ấy phải tập trung lực lượng ở phía nam Biển Hồ (sau khi bỏ Ăngco ở phía bắc) để đối đầu với Xiêm La (nay là Thái Lan) đang tiếp tục lấn đất Chân Lạp ở phía tây. Đất Gia Định vẫn là đất tự do của các dân tộc và hầu như vô chủ, là đất hoang nhàn cả về kinh tế lẫn chủ quyền từ xưa"[1].

Theo sử liệu, lưu dân Việt đã đến đây khai hoang và làm ăn sinh sống vào đầu thế kỷ 17, nhờ có cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II vào năm 1620. Vì mưu sinh, có thể lưu dân Việt đã có mặt ở đây trước khi có cuộc hôn nhân ấy. Song, chính nhờ mối quan hệ đó, mà Đại Việt (nay là Việt Nam) và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống, tạo điều kiện cho lưu dân Việt ngày càng đông đảo hơn ở khu vực Đồng Nai, Sài Gòn...[2].

Và căn cứ đoạn chép trong Gia Định thành thông chí, thì lúc bấy giờ lưu dân Việt "ở lẫn với người Cao Miên" (tức Chân Lạp), trích:

"Năm Mậu Tuất (1658)...vua (chúa Nguyễn Phúc Tần) sai Phó tướng Yến Vũ hầu (Nguyễn Phước Yến)...đem 2000 quân, đi tuần đến thành Mỗi Xoài nước Cao Miên, đánh phá được, bắt vua nước ấy là Nặc Ông Chân, đóng gông đem đến hành tại ở dinh Quảng Bình. Vua dụ tha tội...Khi ấy địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn đất"..[3]Trong công cuộc Nam tiến[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Kỷ Mùi (1679), vì không theo nhà Thanh, các tướng nhà Minh  Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình đã đem hơn 3.000 quân cùng 50 chiếc thuyền từ Quảng Đông (Trung Quốc) vào 2 cửa biển là Tư Dung (cửa Tư Hiền) và Đà Nẵng xin qui phụ. Nghe theo lời bàn của triều thần, chúa Nguyễn Phúc Tần bèn cho họ vào ở xứ Đồng Nai (nhóm Trần Thượng Xuyên) và xứ Mỹ Tho (nhóm Dương Ngạn Địch). Từ đó, họ vỡ đất phá hoang, cày ruộng, dựng nhà và phố chợ, buôn bán giao thông với người Trung Quốc, Tây Dương, Nhật Bản, Đồ Bàn...khiến phong tục văn minh dần dần phổ biến...[4].

Đến đầu năm Mậu Dần (1698), nhận lệnh của chúa Nguyễn Phúc Chu, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược nước Chân Lạp. Sau đó, ông "lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai (Lộc Dã) làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên (vùng Biên Hòa); xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (vùng Gia Định). Các nơi đều đặt quan lưu giữ. Mở đất ngàn dặm, được trên 4 vạn hộ. Chiêu mộ dân xiêu tán từ Bố Chánh trở vào Nam cho đến ở, thành lập xã thôn, khai khẩn ruộng đồng, làm sổ đinh, sổ điền. Lại lấy những lái buôn người Hoa sống ở Trấn Biên lập nên xã Thanh Hà, những người ở Phiên Trấn lập nên xã Minh Hương"...[5].

Vậy, kể từ năm đó (1698), dinh Phiên Trấn gồm một phủ (Gia Định) và một huyện (Tân Bình). Về mặt hành chính, chúa Nguyễn Phúc Chu đặt chức Giám quân, Cai bộ và Ký lục để cai trị.

Dần dần, đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, vùng đất phía Nam nới rộng thêm ra, theo chính sách "tàm thực" (lối xâm lấn dần dần như tằm ăn lá dâu) của tướng Nguyễn Cư Trinh. Sau khi con đường Nam tiến thành công, toàn lãnh thổ miền Nam được phân ra thành ba dinh lớn là: Trấn Biên dinh (trấn lỵ ở Biên Hòa), Phiên Trấn dinh (trấn lỵ ở Gia Định) và Long Hồ dinh (trấn lỵ ở Vĩnh Long).Dưới thời Vua Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long)

Năm Bính Thân (1776), Gia Định bị quân Tây Sơn vào chiếm cứ [6]. Sau khi đánh lấy lại, tháng 11 (âm lịch) năm Kỷ Hợi (1779), chúa Nguyễn Phúc Ánh duyệt xem bản đồ, chia toàn miền Nam lúc bấy giờ ra thành một trấn (Hà Tiên) và 4 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Trường Đồn [nâng lên từ đạo], Long Hồ) [7]. Tất cả các dinh trấn này đều chịu sự cai quản của phủ Gia Định [8]. Khi ấy, dinh Phiên Trấn có một huyện là Tân Bình, gồm 4 tổng là: Bình Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc.

Năm 1790, chúa Nguyễn Phúc Ánh sai đắp thành Bát Quái, đồng thời chọn thành phố Sài Gòn (thuộc tổng Bình Dương, huyện Tân Bình) [9] làm nơi đóng đô của mình, và gọi là Gia Định kinh. Địa vị kinh đô này chỉ tồn tại được trên 10 năm (1790 - 1801), vì sau khi lấy được Phú Xuân (1801), chúa Nguyễn liền dời đô ra đấy [10].

Năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long (tức chúa Nguyễn Phúc Ánh) cho đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định, đồng thời cho các dinh cũng đổi thành các trấn, gồm: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Tất cả các trấn này nằm dưới sự cai quản của trấn Gia Định. Có thể coi đây là thời kỳ "Gia Định ngũ trấn"[8].

Đến năm Mậu Thìn (1808), nhà vua này định lại bờ cõi, phân địa giới toàn lãnh thổ Việt Nam ra làm 4 dinh gồm 25 trấn, đồng thời lại chia làm hai miền Bắc Nam, gọi là Bắc Thành  Gia Định Thành để tiện việc cai quản[11]. Lúc bấy giờ, trấn Gia Định được đổi thành Gia Định Thành, và cho cai quản 5 trấn, là: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và An Giang[12].

Theo Nguyễn Đình Đầu, sở dĩ trấn Gia Định được đổi tên là "Gia Định Thành" là vì trước đây Gia Định và Phiên An cùng gọi là "trấn", rất dễ lẫn nhau, và dễ nhầm là ngang bậc nhau. Và cũng theo nhà nghiên cứu này, mặc dù danh xưng thay đổi, song Sài Gòn (thuộc trấn Phiên An) vẫn luôn là lỵ sở của các thời kỳ: phủ Gia Định, trấn Gia Định và Gia Định Thành[8].

Về mặt hành chính của Gia Định Thành, đứng đầu là Tổng trấn, có hai phụ tá là Hiệp Tổng trấn và Phó Tổng trấn. Các thuộc viên khác, gồm có Trấn thủ, Cai bộ và Ký lục. Đây chính là các quan chức đại diện cho triều đình để thống quản các trấn ở phía Nam [13].

Tổng trấn đầu tiên của Gia Định Thành là Nguyễn Văn Nhơn (hay Nhân), và vị Tổng trấn cuối cùng là Lê Văn Duyệt. Theo thống kê năm 1819, thì 5 trấn của Gia Định Thành có khoảng 700.000 dân, riêng trấn Phiên An có khoảng 180.000 dânDưới thời Minh Mạng

Năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn, 1832), sau khi Lê Văn Duyệt từ trần, nhà vua bãi bỏ chức Tổng trấn, chia Gia Định Thành ra làm 6 tỉnh là: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang  Hà Tiên (gọi chung là Nam Kỳ Lục tỉnh), và không đặt một viên quan nào cai trị chung cho cả lục tỉnh nữa. Đơn vị hành chính Gia Định Thành kể như bị xóa sổ từ năm ấy (1832).

Lúc bấy giờ, tỉnh Phiên An gồm hai phủ là phủ Tân Bình (4 tổng lệ thuộc là Bình Dương, Tân Long, Thuận An và Phước Lộc đều thăng làm huyện) và phủ Tân An (lấy hai huyện Thuận An và Phước Lộc lập thành)[15].

Tháng 5 (âm lịch) năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định[16]. Sau, nhà vua lại đặt thêm phủ Tây Ninh gồm hai huyện là Tân Ninh và Quang Hóa[17].

Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), lại đặt thêm phủ Hòa Thịnh (gồm hai huyện Tân Hòa và Tân Thịnh), và phủ Tân Bình lại đặt thêm huyện Bình Long[17].

Lời giải 2 :

- Năm 1698, Phủ Gia Định (gồm: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Long An, Tây Ninh, Tiền Giang và Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) được thành lập.

- Việt Nam là một quốc gia gắn liền với biển do địa thế đặc biệt là nằm kề cận biển Đông, nhìn mặt ra Thái Bình Dương với quá nửa đường biên giới giáp biển. Trong thời Nguyễn (1802-1945), các tư liệu đề cập đến biển đảo chủ yếu là các châu bản và các bộ chính sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam nhất thống chí…là nguồn tư liệu hết sức quan trọng chứng minh cho việc xác lập và thực thi chủ quyền của triều Nguyễn đối với biển, đảo.

Bạn có biết?

Lịch sử là môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này. Hãy trân trọng và học hỏi từ những bài học lịch sử để xây dựng tương lai tốt đẹp hơn!

Nguồn :

Wikipedia - Bách khoa toàn thư

Tâm sự lớp 8

Lớp 8 - Năm thứ ba ở cấp trung học cơ sở, học tập bắt đầu nặng dần và sang năm lại là năm cuối cấp, áp lực lớn dần. Hãy chú ý đến sức khỏe, cân bằng giữa học và nghỉ ngơi để đạt hiệu quả tốt nhất!

Nguồn :

sưu tập

Copyright © 2024 Giai BT SGK