Nêu sự khác biệt về đặc điểm giữa chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản hiện đại giúp với ạ plss
Lý thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ban đầu là một luận điểm của chủ nghĩa Mác được phổ biến sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1916, Lenin từng tuyên bố rằng Chiến tranh thế giới thứ nhất đã biến chủ nghĩa tư bản tự do thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng ông không công bố bất kỳ lý thuyết sâu rộng nào về chủ đề này. Thuật ngữ này đề cập đến một môi trường mà nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để bảo vệ các doanh nghiệp độc quyền hoặc chuyên chính lớn hơn khỏi các mối đe dọa. Như được Lenin hình thành trong cuốn sách nhỏ cùng tên, lý thuyết này nhằm mục đích mô tả giai đoạn lịch sự cuối cùng của chủ nghĩa tư bản, trong đó ông tin rằng Chủ nghĩa đế quốc thời đó là biểu hiện cao nhất.
"Tư bản độc quyền" là thuật ngữ thường được sử dụng trong kinh tế chính trị mác xít và bởi một số nhà phân tích không theo chủ nghĩa Mác để chỉ định hình thức tư bản mới, thể hiện trong tập đoàn khổng lồ hiện đại, bắt đầu từ quý cuối của thế kỷ XIX, đã thay thế cho tư bản nhỏ, công ty gia đình với tư cách là đơn vị kinh tế thống trị của hệ thống, đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản và sự bắt đầu của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, chủ nghĩa tư bản độc quyền có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản độc quyền sẽ tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền:
Nền kinh tế trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền được thể hiện rõ nhất ở các xí nghiệp ở Pháp, Mỹ, Anh trong những năm 1900 thì với 1% tổng số xí nghiệp nhưng tổng số máy bay hơi nước và điện lực chiếm hơn 3/4 số lượng công nhân và tổng số sản phẩm được làm ra chiếm gần một nửa so với toàn thế giới.
Đồng thời các doanh nghiệp và xí nghiệp lớn cạnh tranh nhau gay gắt và có những doanh nghiệp và xí nghiệp liên kết nhau để nắm độc quyền.
Thứ hai, chủ nghĩa tư bản độc quyền có tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính.
Khi các ngân hàng nhỏ và vừa không đủ tiềm lực và uy tín để phục vụ yêu cầu của các xí nghiệp lớn với mức độ tích tụ cao trong sản xuất công nghiệp đã tìm đến các ngân hàng lớn hơn.
Do đó, đã thể hiện được đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền thông qua việc các ngân hàng nhỏ phải chấm dứt hoạt động hoặc sáp nhật vào ngân hàng lớn để tồn tại. Cũng chính vì vậy đã dẫn đến sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng.
Thứ ba, chủ nghĩa tư bản độc quyền sẽ xuất khẩu tư bản.
Việc chủ nghĩa tư bản độc quyền nhằm chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác thông qua việc xuất khẩu giá trị của các nước nhập khẩu tư bản.
chủ nghĩa tư bản hiện đại đã là chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân đạo, chủ nghĩa tư bản có ý thức; trong đó, có những mục tiêu cao đẹp hơn chỉ là tìm kiếm lợi nhuận, đã có cơ chế để giải quyết hài hòa lợi ích của các bên có liên quan nhà nước, nhà tư bản, người lao động; việc xây dựng môi trường văn hóa trong doanh nghiệp, các công ty, tập đoàn kinh tế, trong cộng đồng xã hội và việc bảo vệ môi trường được coi trọng.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại có đặc điểm lớn so với tất cả các giai đoạn phát triển trước đây là trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, trình độ khoa học công nghệ rất cao của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Các nước tư bản phát triển, như Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản là những nước đi đầu trong nghiên cứu phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đi đầu trong các lĩnh vực điện tử, tin học, thông tin, viễn thông, phát triển Internet, trí tuệ nhân tạo, công nghệ vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh học... làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, chất lượng, hiệu quả của những ngành kinh tế truyền thống và tạo nên nhiều ngành, lĩnh vực, nhiều sản phẩm mới, công nghệ cao, có giá trị gia tăng, mức cạnh tranh cao. Ngày nay, các nước tư bản phát triển cũng đang đi đầu trong việc phát triển nền kinh tế số, kinh tế tri thức, nền kinh tế thông minh với các ngành công nghiệp thông minh, nông nghiệp, dịch vụ thông minh, hệ thống giao thông, năng lượng, thông tin thông minh, hệ thống phân phối thông minh... Sự phát triển của lực lượng sản xuất trên nền tảng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra tiềm năng cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Các nước tư bản phát triển trở thành các trung tâm kinh tế, tài chính, khoa học công nghệ của thế giới, có quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người thuộc hàng cao nhất thế giới
Không thể phủ nhận trong những năm qua, chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh, thích ứng, tận dụng được các thành tựu khoa học công nghệ để tồn tại, tiếp tục phát triển, có những yếu tố mới, đặc điểm mới; trong đó, có những yếu tố có thể xem là những mầm mống của chủ nghĩa xã hội hình thành trong lòng xã hội tư bản. Nhưng có thể khẳng định rằng những điều chỉnh, những đặc điểm mới, yếu tố mới đó vẫn chưa phá vỡ được khuôn khổ, nền tảng của chế độ tư bản chủ nghĩa, vẫn chỉ là những điều chỉnh, những sự chuyển biến trong khuôn khổ của chế độ tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại chỉ là giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền trong thời đại toàn cầu hóa, độc quyền không chỉ trong phạm vi một quốc gia, mà trên quy mô toàn cầu. Thị trường toàn cầu ngày nay do một số tập đoàn tư bản độc quyền chi phối, như: thị trường máy bay do hai công ty Boing và AirBus chia nhau thị phần, thị trường điện thoại di động, các thiết bị điện tử, chủ yếu do các công ty SamSung, Apple, IBM thống trị...
Chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng không xóa bỏ được tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội, mà sự phân hóa còn tiếp tục gia tăng, vẫn là chế độ bất công. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, một bộ phận công nhân có cổ phiếu, cổ phần ở các công ty tư bản. Số lượng công nhân có cổ phiếu có thể đông, nhưng số lượng cổ phiếu mỗi người có đều rất nhỏ, nên thực tế tổng số cổ phiếu mà người công nhân có chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số cổ phiếu của các công ty tư bản. Trong những năm 70 của thế kỷ trước, chính phủ Mỹ thực hiện “kế hoạch phát triển sở hữu cổ phiếu của người lao động làm công” [ESOP], lúc cao nhất gần 40% người lao động làm công Mỹ có cổ phiếu, nhưng tổng giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu chỉ chiếm trên 1% giá trị cổ phiếu mà các công ty phát hành. Số lượng ít, phân tán, người lao động hoàn toàn không có tiếng nói gì ảnh hưởng tới hoạt động của các công ty. Ở các nước tư bản phát triển, những cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý cấp cao, nhờ có trình độ chuyên môn cao [công nhân cổ trắng], cùng với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, tạo thành tầng lớp trung lưu của xã hội chỉ là một bộ phận nhỏ trong lực lượng làm thuê và dù nhà nước còn có các chính sách phân phối lại thu nhập, chính sách bảo hiểm, trợ cấp, cung cấp nhiều dịch vụ công, hỗ trợ những đối tượng khó khăn, nhưng số lượng những người có mức sống thấp, dưới mức nghèo khổ, những người thất nghiệp, người vô gia cư, người nhập cư ở những nước này còn rất lớn. Hơn nữa, để đánh giá chủ nghĩa tư bản hiện đại, không thể chí thấy khu vực “trung tâm” là các nước kinh tế phát triển, mà cần phải thấy cả khu vực “ngoại vi” của nó là những nước đang phát triển, nước nghèo, kém phát triển, nơi có tỷ lệ người nghèo, đói còn rất cao. Chênh lệch về thu nhập, mức sống, tài sản giữa người giàu và người nghèo trong thế giới tư bản rất lớn, xu hướng ngày càng gia tăng. Theo thống kê của Liên hợp quốc, tài sản của 225 người giàu nhất thế giới lớn hơn thu nhập, tài sản của hơn 2,5 tỷ người nghèo trên thế giới. Cuộc khủng hoảng do đại dịch Covid-19 hiện nay đang làm bộ lộ rất nhiều về sự phân hóa xã hội ở các nước tư bản phát triển. Chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa phải là chủ nghĩa tư bản nhân đạo, nhân văn như một số quan điểm đề cao nó.
Trong chủ nghĩa và bản hiện đại, những mâu thuẫn gắn liền với bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại, dù có những hình thức biểu hiện mới. Đó là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê, giữa tư bản với tư bản, giữa các cường quốc tư bản với các nước nghèo, kém phát triển, đang phát triển. Để có lợi nhuận tối đa, thì đối với nhà tư bản, thời gian lao động của công nhân càng dài càng tốt, cường độ lao động càng cao càng tốt, chi phí tiền lương, tiền công, trang bị bảo hộ lao động, phúc lợi cho người lao động càng ít càng tốt, do đó, luôn tìm mọi cách, kể cả “lách luật” để làm điều này một cách tinh vi. Sự hình thành đội ngũ công nhân “cổ trắng” trong thời đại cách mạng công nghệ và các chính sách điều tiết của nhà nước có góp phần cải thiện đời sống cho một bộ phận công nhân ở các “trung tâm” phát triển, nhưng tư bản lại chuyển đầu tư sang các vùng “ngoại vi” kém phát triển để tận dụng lao động giá rẻ, tạo nên tình trạng thất nghiệp ở khu vực trung tâm. Tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân cực xã hội ngày càng tăng cả ở khu vực “trung tâm” và “ngoại vi” và việc bổ sung vào đội ngũ những người lao động làm thuê cả những người có trình độ cao làm cho mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trong chủ nghĩa tư bản hiện đai sẽ ngày càng phát triển.
Ngày nay, mâu thuẫn giữa các công ty, tập đoàn tư bản, các nước tư bản phát triển với nhau trong việc giành giật thị trường tiêu thụ, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, các phát minh, sáng chế, thành tựu khoa học công nghệ, các nhân lực chất lượng cao... vẫn diễn ra rất gay gắt. Sự ra đời, hoạt động của các tổ chức toàn cầu, khu vực, như WTO, G7, G20, APEC... đã tháo gỡ, giải quyết được một số mâu thuẫn, bất hòa giữa các nước, nhưng không giải quyết được căn bản vấn đề. Sự bế tắc của nhiều vòng đàm phán của WTO, sự kém hiệu quả của thể chế G7, G20... buộc các nước phải tự lo cho mình, phải ký kết các hiệp định song phương, đa phương để bảo vệ lợi ích của mình. Ngày nay, các nước tư bản phát triển không xâm lược, biến các nước nghèo, kém phát triển thành thuộc địa để bóc lột, nô dịch như thời kỳ chủ nghĩa thực dân cũ và mới như trước đây, nhưng mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước nghèo, kém phát triển, đang phát triển vẫn rất gay gắt. Quan hệ giữa các nước tư bản phát triển với các nước kém phát triển, đang phát triển thể hiện bên ngoài như những quan hệ bình đẳng, thỏa thuận từ cả hai phía, nhưng thực chất là quan hệ bất bình đẳng. Các nước tư bản phát triển giàu có, có nguồn lực tài chính lớn, trình độ khoa học công nghệ cao, nắm độc quyền các bí quyết công nghệ, thương hiệu sản phẩm... xuất khẩu hàng hóa, xuất khẩu tư bản vào các nước đang phát triển, kém phát triển không phải với mục tiêu hỗ trợ phát triển các nước này mà để mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tài nguyên, nguồn lao động rẻ, chuyển giao những máy móc thiết bị, những công đoạn những ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường cho những nước này, với giá cả độc quyền do họ chi phối; đồng thời vẫn sử dụng các biện pháp chống bán phá giá, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan [như nguồn gốc xuất sứ, về lao động, điều kiện sản xuất, về vệ sinh an toàn...] để cản trở xuất khẩu hàng hóa của nước đang phát triển, kém phát triển vào nước họ... Chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa phải là xã hội công bằng, bình đẳng mà con người hướng tới.
Lịch sử là môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này. Hãy trân trọng và học hỏi từ những bài học lịch sử để xây dựng tương lai tốt đẹp hơn!
Lớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng tương lai và học đại học có thể gây hoang mang, nhưng hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai!
Copyright © 2024 Giai BT SGK